Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2016

Nhà nghiên cứu văn hóa Hoàng Triều Ân: "Gừng càng già càng cay"


Nhà nghiên cứu văn hóa Hoàng Triều Ân: "Gừng càng già càng cay"
Nhà nghiên cứu văn hóa Hoàng Triều Ân:

Ba phút một cuộc điện thoại, ba phút một câu: "Xin lỗi. Tôi bận quá" - nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hoá, người được mệnh danh là nhà Hán Nôm Tày - ông Hoàng Triều Ân liên tục làm ngắt quãng cuộc trò chuyện vốn đã phải có ý tranh thủ.

Bác học -  ông già Tày "xịn"

Ông vừa là người của Hội Nhà văn Việt Nam, vừa của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, phía nào ông cũng có nhiều thành tựu. Ông thích người ta gọi ông là nhà văn, nhà thơ, hay nhà bác học?
Nghe oách nhỉ? Gọi tôi là "ông già Tày" đi. Tày "xịn" đấy (cười hóm hỉnh). Cụ Tổ dòng họ tôi ở Cao Bằng là cụ Hoàng Triều Hoa, vốn ở Gia Miêu trang, huyện Tống Sơn, trấn Thanh Hoa (nay là Thanh Hoá) được triều đình cử tiếp lên Cao Bằng cùng Đinh Văn Tả diệt Mạc. Đến đời Triều Ân, ở Cao Bằng đã là 11 đời rồi. Thế không phải là Tày  "xịn" sao?
Ai là người đầu tiên gọi ông là nhà bác học?
Sau xuất bản hai công trình nghiên cứu về chữ Nôm Tày và truyện thơ (và thể loại), Trung tâm nghiên cứu Quốc học cùng nhà xuất bản văn học xuất bản tiếp cuốn "Văn học chữ Hán dân tộc Tày". Trong lời giới thiệu, giám đốc trung tâm NCQH, uỷ viên hội đồng lý luận văn học nghệ thuật trung ương , GS.TS Mai Quốc Liên viết: "... Và ở đây, ông (Triều Ân) là nhà bác học với thao tác làm việc thuần thục và chính xác".
Mọi người quen gọi tôi là bác học từ đó.
Ít người nghiên cứu văn học Nôm Tày quá
Vì ông là người Tày "xịn" nên các tác phẩm sáng tác cũng như nghiên cứu đều mang hơi thở, tâm hồn của tộc người này?
Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng đất vốn có nền văn hiến lâu đời, ngoài phần sáng tác, tôi rất trăn trở, muốn sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu tinh hoa văn học vẫn còn tiềm ẩn của người Tày.
Hiện nay trong hàng ngũ trí thức Tày có bao nhiêu người nghiên cứu văn học chữ Nôm Tày?
Theo tôi biết có khoảng 2 bàn tay. Trong đó gia đình tôi có 3 người là ông nội, bố tôi, và tôi. Ít quá. Vì vậy tôi nghĩ, với văn hoá dân gian Tày, tôi ước ao có một đội ngũ cùng nghiên cứu, giới thiệu. Cũng chính vì thế mà tôi để tâm biên soạn cuốn "Từ điển chữ Nôm Tày" mong nhiều người hôm nay hoặc tiếp sau có cơ sở khảo cứu các tác phẩm di sản viết bằng chữ Nôm Tày.
Chữ Nôm Tày có giống chữ Nôm Kinh? Tại sao chữ Nôm lại "đeo râu" thế?
Văn tự Việt Nam trải qua các hình thức: chữ Khoa Đẩu (chữ nòng nọc), chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ. Chữ Nôm là thứ chữ chế tác trên nguyên tắc dùng chữ Hán để làm chữ cái viết ra chữ Nôm ghi âm tiếng Việt hoặc tiếng Tày. Chữ Nôm đã có ít nhất là từ thế kỷ II sau CN, khi nước ta chịu sự đô hộ của phong kiến phương Bắc. Khi ta phải kê khai sổ đinh, sổ địa bạ gặp những chữ thuần Việt hoặc thuần Tày mà chữ Hán không thể hiện được. Lưu truyền, vua Trần cho Nguyễn Thuyên làm bài "văn tế cá sấu", để đuổi con ngạc ngư bỗng xuất hiện ở đoạn sông Nhị Hà. Bài văn tế ấy tương truyền viết bằng chữ Nôm Việt. Việc làm kết quả, vua cho Nguyễn Thuyên đổi họ thành Hàn Thuyên (vì đã như Hàn Dũ bên Trung Quốc có bài văn tế nổi tiếng ấy). Chữ Nôm Kinh viết để ghi tiếng Kinh, chữ Nôm Tày viết ghi tiếng Tày. Cho nên nguyên tắc chế tác giống nhau nhưng khác nhau về tiếng nói. Chữ có râu (dấu nháy) dùng trong trường hợp không thể vận dụng chữ Hán để ghi chép cho cận âm hơn nữa.
(Ông đưa tay lên ngực trái, mắt thoáng ướt, vẻ xa xăm. Mái tóc bạc trắng rủ xuống vầng trán đã hằn quá nhiều nếp nhăn như những dấu chấm hỏi. Tám mươi tuổi đến nơi, nhớ lại lúc biên soạn cuốn " Từ điển chữ Nôm Tày", đang  ở bệnh viện, ông còn bày la liệt để phân loại và xếp các mục từ chữ Nôm ra sàn bệnh viện, mà sàn bệnh viện cũng không đủ chỗ cho ông bày).
Với các công trình nghiên cứu văn học dân gian Tày, ông tâm đắc nhất cuốn sách nào?
Đến nay sáng tác có 19 tác phẩm, về nghiên cứu cũng có 19 tác phẩm, cộng 3 công trình nghiên cứu sắp xuất bản cuối 2008 sẽ là 22 công trình nghiên cứu. Với các công trình nghiên cứu đã công bố (trên sách), tôi đều quý và tâm đắc. Nhưng kể cả ra 19 công trình đã xuất bản thì khó (cười). Cũng phải  có cuốn tâm đắc hơn như: Ca dao Tày Nùng, từ điển thành ngữ tục ngữ dân tộc Tày, từ điển văn hoá dân tộc Tày, chữ Nôm Tày và truyện thơ, Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại, từ điển chữ Nôm Tày, văn học chữ Hán dân tộc Tày.
Vậy, văn học dân gian địa phương cơ bản đã được giới thiệu?
Chưa giới thiệu được bao nhiêu đâu so với kho tàng di sản Hán Nôm người Tày đã phát hiện. Năm 1993 tôi cùng nhà nghiên cứu Lục Văn Pảo (Viện Dân tộc học) kiểm kê các văn bản truyện thơ Nôm Tày có gần 60 pho sách.

Chẳng có thì giờ buồn đâu
Ông Ân đang giải thích và viết một số từ Nôm Tày.
Ông Ân đang giải thích và viết một số từ Nôm Tày.

Ông về hưu ở quê có buồn không? Hình như  về hưu  ông làm được nhiều công trình hơn khi còn công tác?
Đúng. Từ sau khi về hưu, tôi dồn cho nghiên cứu hơn. Xem "sách cùng tác giả", sẽ thấy từ 1993 (về hưu) số lượng sách công bố có nhiều hơn những năm trước đó. Còn buồn thì không có thì giờ nghĩ đến. Lúc nào tôi cũng làm không hết việc, vẫn muốn làm nữa, làm mãi. Có nhiều người đang từng giờ chờ tôi dịch giúp tài liệu văn học Tày để làm luận án thạc sĩ, tiến sĩ. Rồi học sinh, người yêu thơ, các biên tập viên, đồng nghiệp thăm hỏi, trao đổi suốt, còn làm thơ, viết truyện, dịch sách, không biết buồn nữa đâu. Thành thật xin lỗi vì những cuộc điện  thoại liên tục làm ngắt quãng câu chuyện, nhưng nhất định tôi phải trả lời điện thoại những tri giao.
(Ông  nghiêng người xin lỗi, dáng điệu lịch sự như một nhà ngoại giao Pháp, lại mang vẻ chân thành của một ông già Tày, ánh mắt của ông lão 80 tuổi vãn lấp lánh những tia tình yêu nóng hổi, rộn ràng: "Bao mong đợi để có một chiều nay. Em đến với anh như một cơn lốc xoáy. Áp tai nghe trái tim anh đấy. Vó ngựa xa rồi  còn nhịp trái tim" (Trái tim - Hoàng Triều Ân).
Đã chứng kiến nhiều cảnh người yêu thơ, người hâm mộ (cả nam lẫn nữ ở nhiều lứa tuổi) vây quanh ông nghe đọc thơ, bình thơ, tôi thấy ai ai cũng muốn "ôm trọn Triều Ân" vào lòng, ông có khổ vì nổi tiếng?
(Cười rất trẻ). Có thể nói gọn cho vui là có nhiều người yêu. Tôi hạnh phúc và giàu có vì điều đó.
Trân trọng cảm ơn ông!
Triều Ân (Họ Hoàng) sinh năm 1931. Quê quán: Cao Bằng. Dân tộc: Tày. Huân chương độc lập hạng 3. Huy chương vì sự nghiệp giáo dục. Huy chương vì sự nghiệp văn học nghệ thuật Việt Nam. Huy chương vì sự nghiệp văn nghệ dân gian Việt Nam. Huy chương vì sự nghiệp văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Tác giả bài viết: Việt Nga

Người mở cánh cửa dịch chữ Nôm Tày

Vào một ngày đẹp trời, ông Ma Văn Đức, nguyên Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến gõ cửa nhà ông Tống Đại Hồng, nguyên Giám đốc Công ty Điện lực Tuyên Quang nhờ dịch một bản thảo gia phả cổ mà ông cho là chữ Hán, bởi ông Hồng được coi là người dịch tiếng Hán giỏi trong tỉnh. Ông Hồng nhận lời nhưng cả tuần sau ông cũng chưa dịch nổi chữ nào. Cầm bản thảo trong tay mà ông Hồng cứ băn khoăn, đúng là chữ tượng hình rồi, nhưng chả giống chữ Hán mà cũng không giống chữ Nôm Việt, ông chưa gặp loại chữ này bao giờ. Vì khó thế nên ông Đức mới nhờ, nghĩ vậy nên ông Hồng quyết tâm tìm hiểu và cuối cùng ông phát hiện ra đó là chữ Nôm Tày.

Ông Hồng vào mạng Internet tra từ điển thì dịch bập bõm được vài đoạn. Qua tìm kiếm, ông Hồng đã biết được chủ nhân cuốn “Từ điển Nôm Tày” là nhà văn, nhà nghiên cứu văn hóa dân tộc thiểu số Hoàng Triều Ân, dân tộc Tày người Cao Bằng. Nhưng ông Ân là “chuyên gia” hàng đầu về chữ Nôm Tày ở Việt Nam cho biết cuốn “Từ điển Nôm Tày” của ông đã bán hết veo, không còn một cuốn nào, nếu muốn mua phải chờ tái bản. Ông bảo, nếu cậu muốn có ngay thì xuống nhà sách ở Hà Nội mua 13 quyển “Tổng tập thơ Nôm Tày” có dịch song ngữ của tớ. Ở đó cũng tương đối đầy đủ, chịu khó tổng hợp là có thể dịch được. Mê quá, ông Hồng sai con xuống Hà Nội “bê” luôn cả 13 quyển “Tổng tập thơ Nôm Tày” có dịch song ngữ. Rồi những ngày sau đó ông vùi đầu “nhặt” chữ ra thành “kho” từ điển Nôm Tày của riêng mình. Nhưng làm thủ công như ông Ân, ông Hồng thấy nó bất tiện, muốn viết đều phải chép bằng tay.

Ông Tống Đại Hồng đang miệt mài dịch chữ Nôm Tày và tìm cách vi tính hóa để lưu trữ tư liệu được lâu dài.

Ông mang băn khoăn này trao đổi với Phòng Tin học của Công ty Điện lực Tuyên Quang. Anh em bên đó đã nhiệt tình giúp đỡ ông xây dựng phần mềm tin học từ điển chữ Nôm Tày, giúp người sử dụng tra cứu một cách nhanh, chính xác, thuận tiện. Qua sử dụng, giờ ông đã dần hoàn chỉnh bộ từ điển Nôm Tày được tin học hóa của mình và trở thành bộ từ điển “Nôm Tày điện tử” trên 2.000 từ đầu tiên trong tỉnh. Giờ đã nghỉ hưu, trong căn nhà riêng tại số 285, đường 17-8, phường Phan Thiết (TP Tuyên Quang) ông say mê tìm hiểu, nghiên cứu dịch gia phả, văn bia, câu đối, các bài cúng, các bài then, bài cọi, truyện thơ, văn tự ghi ruộng đất, văn quan làng… từ chữ Nôm Tày sang chữ Quốc ngữ.

Ông Tống Đại Hồng tâm sự, ông học chữ Nôm Tày nhanh là do đã có nền tảng tiếng Hán khá vững chắc từ trước. Ông là người Tày xã Tân Mỹ (Chiêm Hóa), năm lớp 8 ở trường huyện ông được học chữ Hán. Sau này ở cương vị Giám đốc Công ty Điện lực Tuyên Quang, cơ quan hay phải giao dịch mua thiết bị, mua điện với các đối tác Trung Quốc, nhờ đó ông lại quyết tâm tự học tiếng Hán một lần nữa. Chính do công việc, năng khiếu và lòng đam mê tìm hiểu, giờ ông là chuyên gia hàng đầu về chữ Hán trong tỉnh. Tháng 4 vừa qua trên Báo Tân Trào, ông có bài viết dài gây chú ý với tiêu đề “Bước đầu tìm hiểu chữ Nôm Tày ở Tuyên Quang”. Ông lý giải, do công việc nên ông đã được đi nhiều nước: Lào, Trung Quốc, Thái Lan và ba nơi này ngôn ngữ giao tiếp của người dân tương đối giống nhau, chỉ có khác cách phát âm nặng nhẹ mà thôi, nếu chú ý lắng nghe đều có thể giao tiếp được.

Trong lịch sử, người Việt trên cơ sở chữ Hán đã xây dựng bộ chữ Nôm Việt, trở thành chữ viết quốc gia trong một thời gian dài của lịch sử dân tộc. Người Tày ở phía Bắc nước ta cũng vậy, dựa trên cách thức xây dựng chữ Nôm Việt, họ xây dựng nên chữ Nôm Tày của riêng dân tộc mình. Thời chữ Nôm phát triển rực rỡ nước ta là vào thế kỷ 15 - 16 thời nhà Mạc.

Hiện nay, một kho tàng tri thức cổ khổng lồ của dân tộc Tày nói chung và dân tộc Tày tỉnh ta nói riêng đều nằm trong các văn bản cổ viết bằng chữ Nôm Tày. Những người dịch được chữ Nôm Tày trong tỉnh chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Nếu những người này mất đi, “cánh cửa” dịch chữ Nôm Tày trong tỉnh sẽ dần khép lại.

Ông Hồng tâm sự, giờ về hưu ông trăn trở phải có trách nhiệm “mở cánh cửa dịch chữ Nôm Tày”, góp phần tìm hiểu lịch sử, văn hóa của cha ông. Vừa qua, Nghi lễ Then của dân tộc Tày tỉnh ta được công nhận là di sản văn hoá phi vật thể quốc gia, trong đó các bài cúng cổ của Nghi lễ Then hầu hết được viết bằng chữ Nôm Tày. Để bảo tồn khẩn cấp giá trị Nghi lễ Then không còn cách nào khác là phải dịch được các bài Then cổ. Tuy nhiên, mình ông không thể làm nổi một khối lượng công việc đồ sộ như vậy. Ông mong muốn UBND tỉnh, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phối hợp để làm tốt việc sưu tầm, bảo quản các tư liệu chữ Nôm Tày trong tỉnh; cử một số người trẻ có năng lực để học chữ Nôm Tày; tiếp tục hoàn chỉnh bộ “từ điển điện tử” chữ Nôm Tày, tạo dựng phông chữ, cách gõ chữ Nôm Tày trên máy tính và có nguồn kinh phí để hoạt động. Theo ông, làm được như vậy mới có cơ sở xây dựng dữ liệu lưu trữ lâu dài, tạo điều kiện cho các cá nhân, đơn vị có nhu cầu sử dụng trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về lịch sử, văn hóa dân tộc Tày.         

CÔNG TÁC BIÊN DỊCH VÀ NGHIÊN CỨU TRUYỆN THƠ NÔM TÀY: ĐÔI NÉT VỀ THÀNH TỰU VÀ TRIỂN VỌNG

CÔNG TÁC BIÊN DỊCH VÀ NGHIÊN CỨU TRUYỆN THƠ NÔM TÀY: ĐÔI NÉT VỀ THÀNH TỰU VÀ TRIỂN VỌNG
HOÀNG PHƯƠNG MAI
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Truyện thơ Nôm Tày là một trong những mảng thể loại văn học thành văn tiêu biểu của đồng bào dân tộc Tày với số lượng tác phẩm khá phong phú, nội dung phản ánh muôn mặt đời sống xã hội của đồng bào dân tộc Tày. Công tác biên dịch và nghiên cứu hệ thống các tác phẩm truyện thơ Tày đã được giới học thuật quan tâm và tiến hành từ những thập niên nửa cuối thế kỷ trước. Dưới đây chúng tôi xin điểm lại những thành tựu nổi bật trong công tác biên dịch và nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày trong thời gian qua:
I. Những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực biên dịch và nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày:
I.1. Về lĩnh vực biên dịch:
- Năm 1961, Nxb. Văn học đã cho ra đời bộ sách Truyện thơ Tày - Nùng, tập 1 do nhiều tác giả biên dịch, Nông Quốc Chấn giới thiệu. Tập sách này đã biên dịch 4 truyện thơ sau: Nam Kim - Thị Đan, Lưu Đài - Hán Xuân, Kim Quế, Truyện Chim Sáo.
- Năm 1961, Ty văn hóa Cao Bằng xuất bản cuốn Nam Kim - Thị Đan (truyện thơ Tày) do Vũ Khoanh sưu tầm, Hoàng Hưng hiệu đính(1), đã biên dịch và giới thiệu truyện thơ Nam Kim - Thị Đan.
- Năm 1962, trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam. Tập 6: Văn học dân tộc thiểu số, Quyển 1 do nhóm tác giả Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Mạc Phi biên soạn, Nxb. Văn hóa, có tìm hiểu về các loại văn học các dân tộc thiểu số. Riêng về truyện thơ dân tộc Tày - Nùng giới thiệu một truyện thơ: Nam Kim - Thị Đan (do Nông Minh Châu dịch và chú thích, ở đây chỉ trích giới thiệu 292 câu dịch thơ tiếng Việt)
- Năm 1963, Nxb. Dân tộc Việt Bắc xuất bản cuốn sách Đính Quân. Truyện thơ Tày - Nùng.
- Tiếp theo Tập 1 của Truyện thơ Tày - Nùng ra đời năm 1961, Nxb. Văn học, năm 1964, tiếp tục giới thiệu tới độc giả tập 2 của bộ Truyện thơ Tày - Nùng. Tập sách này biên dịch và giới thiệu 4 truyện thơ sau: Đính Quân (Hán Đính), Quảng Tân - Ngọc Lương, Trần Châu (Tần Chu) Vượt biển (Khảm hải) (mỗi truyện thơ đều có phần giới thiệu nội dung khoảng 1 trang, sau đó đến phần dịch thơ tiếng Việt, không có phần phiên âm tiếng Tày).
- Cũng trong năm 1964, Nxb. Văn học còn xuất bản bộ Truyện thơ Tày - Nùng, tập 1, bản dịch của Hoàng An Định, Hoàng Quyết hiệu đính và giới thiệu.
- Năm 1976, tác phẩm Nam Kim - Thị Đan, Chiêu Đức - Kim Nữ của hai học giả Hoàng An Định và Quốc Tuấn biên dịch, giới thiệu hai truyện thơ Nam Kim - Thị Đan và Chiêu Đức - Kim Nữ.
- Năm 1978, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội xuất bản tập sách Tần Chu: Truyện thơ Tày, Nùng do Cần Slao Slec chú thích, Nông Phúc Tước giới thiệu.
- Năm 1981, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập 6 Quyển 2: Văn học dân tộc ít người (in lần 2) do nhóm Nông Quốc Chấn, Hoàng Thao, Hà Văn Thơ biên soạn, Nxb. Văn học xuất bản, đã sưu tầm và dịch một số truyện thơ sau: Truyện Chim Sáo (Hoàng An Định sưu tầm và dịch), Nam Kim - Thị Đan (Nông Viết Toại sưu tầm và dịch), Lưu Đài - Hán Xuân (Hoàng An Định sưu tầm và dịch), Quảng Tân - Ngọc Lương do Nông Minh Châu sưu tầm và dịch, Trần Châu do Hoàng Quyết sưu tầm và dịch. Nhưng các truyện thơ nêu trên chỉ có phần dịch thơ Tiếng Việt.
- Năm 1983, Sở văn hóa thông tin Bắc Thái tỉnh Bắc Thái giới thiệu cuốn sách Tam Mậu Ngọ: Truyện thơ Tày do Bế Sĩ Uông và Ma Trường Nguyên sưu tầm, phiên âm và dịch chú. Trong tác phẩm này các dịch giả đã cung cấp phần dịch thơ tiếng Việt của truyện Tam Mậu Ngọ dài 1206 câu.
- Năm 1989, Hội Văn học nghệ thuật Bắc Thái tỉnh Bắc Thái xuất bản tác phẩm Lương Nhân. Truyện thơ Tày - Nùng, giới thiệu truyện thơ Lương Nhân (chưa được đọc)
- Năm 1992, Nhà xuất bản KHXH xuất bản bộ sách Tuyển tập văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam do Đặng Nghiêm Vạn làm chủ biên. Bộ sách gồm 4 quyển, trong đó Quyển 3 giới thiệu 3 truyện thơ Nôm Tày: Đính Quân (2075 câu, Lục Văn Pảo dịch), Nam Kim - Thị Đan (578 câu, tuyển lại từ Truyện thơ Tày - Nùng tập 1 do Nxb. Văn học xuất bản năm 1964), Lưu Đài - Hán Xuân.
- Năm 1994, Nxb. Văn hóa dân tộc cho ra đời tác phẩm Nam Kim - Thị Đan: Truyện thơ Nôm dân tộc Tày do Hoàng Quyết sưu tầm, dịch và chú thích. Đây là cuốn sách khổ nhỏ, nội dung gồm 4 phần chính: lời giới thiệu nội dung câu chuyện Nam Kim Thị Đan bằng tiếng Việt, phần dịch thơ tiếng Việt dài 710 câu, lời giới thiệu cốt chuyện bằng tiếng Tày và phần phiên âm truyện thơ bằng tiếng Tày.
- Cũng năm 2004, Truyện thơ Nôm Tày do Hoàng Quyết, Hoàng Triều Ân sưu tầm, dịch, chú thích, giới thiệu, Nxb. Văn hóa dân tộc xuất bản. Tập sách này giới thiệu 5 truyện thơ sau: Nhân Lăng, Bjoóc Lả, Chiêu Đức, Lý Thế Khanh và Nho Hương (mỗi truyện thơ đều có phần dịch thơ tiếng Việt và phần phiên âm tiếng Tày)
- Tiếp đến là Hợp tuyển văn học dân gian các dân tộc. Tập 1: Tày - Nùng - Sán Cháy, Đặng Văn Lung, Trần Thị An biên soạn, do Nxb. Văn hóa dân tộc xuất bản năm 1995. Trong bộ hợp tuyển này, hai tác giả trích giới thiệu một số truyện thơ sau: Truyện Chim Sáo (Hoàng An Định sưu tầm và dịch), Quảng Tân - Ngọc Lương (Nông Minh Châu sưu tầm và dịch), Nam Kim - Thị Đan (Nông Viết Toại sưu tầm và dịch), Nho Hương (Hoàng Quyết, Triều Ân dịch và chú thích), Nhân Lăng (Hoàng Quyết - Triều Ân dịch và chú thích), Lý Thế Khanh (Hoàng Quyết - Triều Ân dịch và chú thích), Chiêu Đức (Hoàng Quyết - Triều Ân dịch, giới thiệu), Bjoóc Lạ (Hoàng Tuấn Nam dịch, Triều Ân chú thích).
- Cũng trong năm 1995, Truyện thơ Nôm Tày (2 tập) do Triều Ân, Hoàng Thị Cành, Hoàng An Định và Hoàng Quyết biên dịch đã đạt Giải ba công trình nghiên cứu năm 1995 của Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam.
- Năm 2000, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản bộ sách Tổng tập văn học Việt Nam (trọn bộ 42 tập). Trong đó, Tập 39 do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên đã giới thiệu hai truyện thơ dân tộc Tày: Pú Lương Quân (chỉ tóm tắt nội dung), và Chín chúa tranh vua (chỉ có phần dịch thơ Tiếng Việt). Tập 40 do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên giới thiệu 3 truyện thơ Nôm Tày: Đính Quân (2075 câu, chỉ dịch thơ tiếng Việt, tuyển truyện đã được Nông Minh Châu dịch và in trong Truyện thơ Tày - Nùng, tập II, Nxb. Văn học, 1964), Nam Kim - Thị Đan (578 câu, chỉ dịch thơ tiếng Việt, tuyển lại từ Truyện thơ Tày - Nùng tập 1 do Nông Viết Toại, Hà Vũ Khoanh, Hoàng Rạng dịch và giới thiệu, Nxb. Văn học, H. 1964); Lưu Đài - Hán Xuân (trích 1056 câu, dựa trên bản dịch của Hoàng An Định và Hoàng Quyết in năm 1964).
- Năm 2003, tác phẩm Chữ Nôm Tày và truyện thơ do Triều Ân chủ biên, Trung tâm nghiên cứu Quốc học xuất bản đã biên dịch 5 truyện thơ sau: Truyện Nàng Kim, Truyện Nàng Hán, Truyện Nàng Quyển, Truyện Nàng Ngọc Long, Truyện Nàng Ngọc Dong (mỗi truyện đều giới thiệu bản dịch thơ tiếng Việt, riêng Truyện Nàng Ngọc Dong có cả phần chữ viết tiếng Tày và bản phiên âm tiếng Tày).
- Năm 2004, trong tác phẩm Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại do Trung tâm nghiên cứu Quốc học in, tác giả Triều Ân đã dịch 3 tác phẩm: Hồng nhan tứ quý, Khảm hải, Nam Kim - Thị Đan.
- Cũng trong năm 2004, Trung tâm Khoa học xã hội đã cho ra đời bộ Tinh tuyển văn học Việt Nam. Bộ sách gồm 8 tập, trong đó Tập 2 dành riêng để giới thiệu về nền văn học của các dân tộc thiểu số Việt Nam. Trong đó, Quyển 1 thuộc tập 2 có giới thiệu hai truyện thơ dân tộc Tày: Truyện Chim Sáo (Hoàng An Định sưu tầm và dịch, tổng cộng 373 câu, ở đây trích dịch 219 câu) và Truyện Nam Kim - Thị Đan (Nông Viết Toại sưu tầm và dịch, ở đây trích dịch 141 câu)
- Trong Đẻ đất đẻ nước: trường ca, truyện thơ các dân tộc Mường Tày Nùng... trích giới thiệu 4 truyện thơ: Chim Sáo do Hoàng An Định sưu tầm và dịch, Nam Kim Thị Đan do Hoàng An Định sưu tầm và dịch, Quảng Tân Ngọc Lương do Nông Minh Châu sưu tầm và dịch, Trần Châu do Hoàng Quyết sưu tầm và dịch.
- Năm 2005, Hà Thị Bình dịch và giới thiệu cuốn Tử thư - Văn Thậy do Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản. Cuốn sách giới thiệu truyện thơ Tử Thư - Văn Thậy dài 1451 câu, có phiên âm tiếng Tày và dịch thơ tiếng Việt.
- Viện Nghiên cứu Văn hóa: Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Tập 22: Truyện thơ. Nxb. KHXH, H. 2008. Phiên dịch và giới thiệu 3 truyện thơ Nôm Tày sau: Toẹn Thị Đan (Truyện Thị Đan): gồm 702 câu, có các phần: tóm tắt nội dung 2 trang do Triều Ân tóm tắt, bản chữ Nôm Tày, phiên âm tiếng Tày, dịch thơ tiếng Việt đã được giới thiệu trong Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại. Triều Ân, Nxb. Văn học, H. 2004. Chiêu Đức, gồm 2551 câu thơ, có các phần: nội dung câu chuyện (do Hoàng Quyết và Triều Ân tóm tắt), phiên âm tiếng Tày, dịch thơ tiếng Việt. Nàng Kim, gồm 1866 câu thơ, có các phần sau: nội dung câu chuyện (Hà Mai Hương tóm tắt), phiên âm tiếng Tày, dịch thơ tiếng Việt.
I.2. Về lĩnh vực nghiên cứu, phê bình và khai thác truyện thơ Nôm Tày - Nùng:
Các công trình được in thành sách:
- Năm 1984 Lã Văn Lô - Hà Văn Thư. Văn hóa Tày Nùng. Nxb. Văn hóa, H. 1984. Ở chương 3: Văn học nghệ thuật truyền thống, có phần viết về Truyện thơ Nôm khuyết danh(2), học giả Hà Văn Thư đã liệt kê tên một số truyện thơ Nôm Tày - Nùng khuyết danh như: Slam Péc - Anh Tài, Nam Kim - Thị Đan, Kim Quế, Chim sáo, Khảm hải, Lưu Đài - Hán Xuân, Trần Chu - Quyển Vương, Quảng Tân - Ngọc Lương, Lương Quân - Bjoóc Rầm... và một số truyện cổ dân gian của người Việt được dịch ra thơ Tày như: Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống Trân - Cúc Hoa. Tiếp đó, tác giả đi đến giới thiệu nội dung một số truyện thơ Nôm khuyết danh Tày - Nùng theo 2 loại: Loại thứ nhất bao gồm các truyện có kết cấu đơn giản, đậm đà tính dân gian, thường mượn những cốt truyện dân gian như: Slam Péc - Anh Tài, Nam Kim - Thị Đan. Loại thứ hai gồm những truyện có kết cấu phức tạp hơn, trình bày có tình tiết hơn, mang tính tiểu thuyết hơn, như: Lưu Đài - Hán Xuân, Tần Chu - Quyển Vương...
- Một trong những công trình tiêu biểu nhất, mang tính lý luận cao trong lĩnh vực nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày là Luận án PTS. Khoa học ngữ văn của Lê Trường Phát bảo vệ thành công năm 1997 với đề tài: Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số. Luận án gồm 3 chương, tập trung nghiên cứu truyện thơ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong bối cảnh truyện thơ các nước Đông Nam Á, từ đó tìm hiểu kết cấu cốt truyện và nhân vật trong truyện thơ các dân tộc thiểu số, tìm hiểu một số phương diện ngôn ngữ sử dụng trong truyện thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam.
- Năm 2000, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia xuất bản bộ Tổng tập văn học Việt Nam, trọn bộ 42 tập, có chỉnh lý và bổ sung, trong đó Tập 39 do nhóm: Chủ biên Đặng Nghiêm Vạn; sưu tầm, biên soạn: Chu Thái Sơn, Nguyễn Hữu Thấu, Lục Văn Pảo, có giới thiệu 2 tác phẩm của dân tộc Tày là: Pú Lương Quân (chỉ có phần tóm tắt nội dung, tuyển theo bản dịch kể của hai ông Lã Văn Lô và Lê Bình Sự trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 65/1964) tr.29-38, truyền thuyết Chín chúa tranh vua tr.39-90, 1372 câu (chỉ có phần dịch thơ tiếng Việt, Lã Văn Lô dịch, đã giới thiệu trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 5 và 6 /1963).
- Trong Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam(3), Phan Đăng Nhật xếp truyện thơ vào loại hình văn học hát(4). Ông căn cứ vào nội dung truyện thơ các dân tộc khác nhau đã được sưu tầm và giới thiệu (trong số đó, truyện thơ Nôm dân tộc Tày Nùng được ông trích dẫn có: Nam Kim - Thị Đan, Kim Quế, Quảng Tân - Ngọc Lương, Vượt biển, Chim sáo, Tần Chu, Lưu Đài Hán Xuân, Đính Quân) để chia truyện thơ các dân tộc ít người thành ba loại đề tài: truyện thơ về tình yêu, về sự nghèo khổ và về chính nghĩa. Qua việc phân tích cốt truyện và tìm hiểu hệ thống các nhân vật chính trong các tác phẩm đó, tác giả đi đến kết luận: “Truyện thơ bắt nguồn từ dân ca và truyện kể, đã phát huy những đặc điểm về nghệ thuật của các loại hình này, do đó vừa có khả năng diễn tả mọi tình cảm tinh vi, phức tạp, lại vừa hấp dẫn người nghe bằng phương pháp kể truyện lý thú... Giữa truyện thơ miền núi và truyện thơ Nôm miền xuôi có những nét tương đồng về các mặt: tư tưởng chủ đạo, xây dựng nhân vật, kết cấu tác phẩm và các thủ pháp nghệ thuật thường dùng.... Truyện thơ đánh dấu một bước phát triển cao của văn học cổ truyền các dân tộc thiểu số. Ở loại hình này (loại hình văn học hát - NV) các dân tộc đã đạt được những thành tựu xuất sắc về chất lượng cũng như về số lượng. Truyện thơ đã tập hợp tinh hoa các loại, thể văn học, đồng thời cũng ảnh hưởng sâu sắc đến các loại, thể phát triển sau nó. Gần đây, một số bài thơ thể kể chuyện, các truyện thơ hiện đại, các thể truyện ký bằng văn xuôi của các tác giả dân tộc ít hoặc nhiều đều đã tiếp thu và phát huy những tinh hoa trong truyện thơ của dân tộc mình”(5).
- Võ Quang Nhơn trong Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam(6) đã dành hẳn Chương bảy: Truyện thơ một dấu nối giữa văn học truyền miệng và văn học dân gian thành văn để đưa ra những nhận định của mình về truyện thơ các dân tộc ít người như: dân tộc Tày Nùng, dân tộc Thái, dân tộc Mường... Trong bài viết này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu quan điểm của tác giả về truyện thơ Nôm dân tộc Tày Nùng. Võ Quang Nhơn đã căn cứ vào phương thức diễn xướng, lưu truyền và nguồn gốc kế thừa của truyện thơ các dân tộc để chia loại hình truyện thơ thành 4 nhóm sau:
- Nhóm truyện thơ gắn với sinh hoạt nghi lễ dân gian, tiêu biểu như: Khảm hải (Vượt biển).
- Nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống tự sự của truyện cổ dân gian các dân tộc như: Chim sáo, Kim Quế.
- Nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống trữ tình của thơ ca dân gian các dân tộc như: Nam Kim - Thị Đan.
- Nhóm truyện thơ thiên về thuyết giáo đạo đức của truyện thơ Nôm Kinh như: Lưu Đài - Hán Xuân, Trần Châu - Quyển Vương, Quảng Tân - Ngọc Lương.
Bằng việc phân tích các đặc điểm thể loại và việc khái quát nội dung một số truyện thơ khác nhau của các dân tộc ít người (với mỗi một nhóm truyện thơ, tác giả đều thâu tóm được những mô típ đề tài, nêu lên những tình tiết cơ bản tiêu biểu của loại truyện thơ đó), từ đó tác giả đi đến kết luận: “Truyện thơ một mặt kế thừa và phát triển truyền thống tự sự và trữ tình của truyện cổ và thơ ca dân gian, một mặt tiếp thu ảnh hưởng của nền văn hóa bác học và đặc biệt là của văn học bác học Việt. Từ những sự kế thừa và chịu ảnh hưởng về nhiều mặt đó, các nghệ nhân dân gian và các trí thức dân tộc đã sáng tạo nên một thể loại văn học dân gian mới, với nội dung bề thế hơn về dung lượng, với nghệ thuật được trau chuốt và hoàn thiện hơn. Ở một số dân tộc ít người, thể loại truyện thơ đánh dấu bước phát triển mới của văn học dân gian. Nó phản ảnh quá trình vận động, biến chuyển của văn học dân gian các dân tộc ít người, tiến tới tiếp cận và đi dần vào quỹ đạo của nền văn học thành văn của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam”(7).
- Năm 2002, sau quá trình 10 năm khảo sát và nghiên cứu một sách công phu và đầy tâm huyết, Vũ Anh Tuấn đã hoàn thành chuyên luận khoa học với đề tài Truyện thơ Tày. Nguồn gốc - quá trình phát triển và thi pháp thể loại. Đây là một công trình nghiên cứu một cách hệ thống về nguồn gốc thể loại truyện thơ Nôm Tày dựa trên cơ sở hiện thực xã hội, nguồn gốc nội sinh và ngoại sinh trong quá trình phát triển và tiếp biến của nền văn hóa tộc người. Từ đó, tác giả xác lập quá trình phát triển của truyện thơ Tày, nêu lên giả thiết về lược đồ của quá trình phát triển đó. Sau cùng, tác giả phân tích thi pháp của thể loại truyện thơ Tày qua những đặc điểm thi pháp cấu trúc, nhân vật và lời văn nghệ thuật trong truyện thơ Tày. Công trình này được khá nhiều học giả đánh giá cao và ghi nhận những đóng góp lớn lao của Vũ Anh Tuấn đối với nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam.
- Năm 2003, trong Chữ Nôm Tày và truyện thơ do Triều Ân chủ biên, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản, các tác giả đã bước đầu tìm hiểu thời điểm xuất hiện truyện thơ Nôm Tày và tiến hành phân loại nguồn gốc truyện thơ Nôm Tày.
- Năm 2005, trong cuốn sách Tử Thư - Văn Thậy do Hà Thị Bình dịch và giới thiệu, Nxb. KHXH xuất bản, bên cạnh việc giới thiệu phần phiên âm và dịch thơ truyện Tử Thư - Văn Thậy, tác giả đã tiến hành phân tích một số vần đề về nội dung và một số yếu tố nghệ thuật của loại truyện thơ này.
- Trong 2 năm vừa qua, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã tiến hành tổ chức biên dịch một số truyện thơ Nôm Tày với cách thức khá hệ thống và mang tính khoa học khi công bố bản dịch truyện thơ Nôm Tày kèm theo nguyên bản chữ viết Tày, phiên âm tiếng Tày và chú thích rõ ràng, chi tiết nhằm giúp cho giới học thuật và độc giả quan tâm có thể dễ dàng hơn trong việc tiếp cận nguyên bản các truyện thơ Nôm Tày.
Các bài viết đăng trên các tạp chí
- Bài viết Đọc sách Nôm Tày Tần Chu của tác giả Hiền Lương đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 1/1989.
- Bài viết Về tác phẩm truyện thơ Tày - Nùng Lưu Đài - Hán Xuân(8) của Nguyễn Minh Tuân bước đầu giới thiệu tác phẩm Lưu Đài - Hán Xuân thông qua việc tìm hiểu đôi nét về nội dung cơ bản của tác phẩm và một vài đặc điểm của việc sử dụng chữ Nôm Tày trong văn bản. Trong đó, ở phần nội dung của tác phẩm, tác giả bài viết tiến hành khảo cứu ba văn bản Lưu Đài - Hán Xuân mang ký hiệu: VNv.685, VNv.672 và VNv.607 hiện đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, đồng thời nêu khái quát nội dung tác phẩm. Ở phần tiếp theo của bài viết, tác giả nêu một số loại chữ Nôm Tày được sử dụng trong tác phẩm này như: chữ Nôm Tày dùng nguyên chữ và âm Hán Việt, nhưng không dùng đến nghĩa của chữ; chữ Nôm Tày dùng nguyên chữ, âm và nghĩa Hán Việt; chữ Nôm Tày dùng nguyên chữ Hán đọc chệch âm Hán Việt, không dùng theo nghĩa của chữ; chữ Nôm Tày sáng tạo; chữ Nôm Tày dùng nguyên chữ Nôm Việt cả ba mặt chữ - âm - nghĩa; chữ Nôm Tày dùng nguyên chữ Nôm Việt có bị biến đổi về âm đọc...
- Cũng tương tự như thế, bài viết Tìm hiểu đôi nét về truyện thơ Nôm Tày - Nùng Toọng Tương của tác giả Trần Thị Thu Hường đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 3/2004 lại đi sâu tìm hiểu văn bản truyện thơ Nôm Tày Toọng Tương ký hiệu VNv.605 lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm trên các phương diện: tác giả, văn bản tác phẩm, thể loại, nội dung và giá trị của tác phẩm.
Trên đây là hai bài viết mang tính khảo cứu khá kỹ về hai tác phẩm truyện thơ Nôm Tày - Nùng là Toọng TươngLưu Đài - Hán Xuân.
- Với bài viết Tìm hiểu yếu tố đạo giáo trong một số truyện thơ Nôm Tày - Nùng đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 1/2009, Nguyễn Minh Tuân sơ lược đề cập đến các yếu tố Đạo giáo trong một số truyện thơ Nôm Tày được thể hiện trên ba phương diện: cấu trúc tác phẩm, cách thức xây dựng nhân vật và không gian hoạt động của các nhân vật trong tác phẩm. Một vài tình tiết tác phẩm và chân dung nhân vật được tác giả bải viết dùng để minh họa cho các luận điểm của mình được lựa chọn từ các tác phẩm truyện thơ sau: Nhân Lăng, Kim Quế, Chiêu Đức, Lưu Đài Hán Xuân, Đính Quân, Quảng Tân Ngọc Lương, Tần Chu. Về cấu trúc tác phẩm truyện thơ Nôm Tày - Nùng, Nguyễn Minh Tuân cho rằng: “Điều dễ nhận thấy nhất ở các tác phẩm là muốn đưa người đọc vào hoàn cảnh cụ thể của sự việc theo trình tự nhất định. Cụ thể là: người sống trong nghịch cảnh cảm thấy thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. Nhờ vào ngoại lực để đạt nguyện vọng. Sau một lịch trình gian khổ, nguyện vọng được thỏa mãn tối đa, v.v...”. Về cách thức xây dựng nhân vật, tác giả bài viết cho rằng: “Một số truyện thơ Nôm Tày - Nùng thể hiện khá rõ nét trong việc xây dựng hình tượng nhân vật theo Đạo giáo, là: hình tượng hóa - thần tiên được trần tục hóa, thần tiên hóa - phép thuật cao cường, quan niệm sống chết - chết đi rồi sống lại theo nguyên hình và chết đi hóa thành vật khác”. Về không gian hoạt động, tác giả bài viết cho rằng: “Đạo giáo chia không gian hoạt động của con người làm ba thế giới: trên là tiên, giữa là người, dưới là quỷ... Các tác giả truyện thơ Nôm Tày - Nùng cũng có người quan niệm như vậy”.
Trên đây mới chỉ là những phác họa ban đầu về những thành quả mà giới học thuật đã đạt được trong công tác biên dịch và nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày trong khoảng thời gian hơn nửa thế kỷ qua. Qua đó có thể thấy truyện thơ Nôm Tày luôn nhận được sự quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu của nhiều học giả.
II. Đôi nét về triển vọng của công tác biên dịch và khai thác truyện thơ Nôm Tày
Qua quá trình tìm hiểu và khảo sát mảng thư tịch được sưu tầm về Viện Nghiên cứu Hán Nôm trong khoảng những thập niên cuối cùng của thế kỷ trước và một phần trong số hàng ngàn văn bản sưu tầm được trong nhưng năm gần đây qua một số công trình: Bài viết Giới thiệu tư liệu truyện thơ Nôm Tày hiện đang được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm của chúng tôi đăng trên Thông báo Hán Nôm học năm 2008; Thư mục sách Hán Nôm các dân tộc thiểu số Việt Nam, Tập 1, Nxb. KHXH, H.2008, chúng tôi đã bước đầu khảo sát được một phần đáng kể truyện thơ Nôm Tày hiện đang được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm như sau:

TT
Tên truyện thơ
Ký hiệu
S. trang
Niên đại
Tình trạng văn bản
11
Bjoóc Lả
ST.1099
18
Bảo Đại 8
Thiếu phần cuối
2 
ST.2169
69
x
Thiếu phần cuối
3 
ST.2232
34
Khải Định 8
Thiếu phần cuối
42
Đính Quân
VNv.619
74
Duy Tân 5
Khá đầy đủ
5 
VNv.673
66
Khải Định 3
Khá đầy đủ
6 
ST.2212
64
x
Thiếu phần cuối
7 
ST.2215
70
x
Thiếu đầu, cuối
8 
ST.2216
72
x
Thiếu đầu, cuối
9 
Đình (Đỉnh) Chi
ST.2270
54
Khải Định 3
Khá đầy đủ
10 
Hoa Đan (Đơn)
ST.2153
192
x
Khá đầy đủ
11 
Kim Quế
VNb.165
73
x
Thiếu phần cuối
12 
VNv.603
38
x
Thiếu phần cuối
13 
VNv.694
94
Khải Định 10
Thiếu phần cuối
14 
ST.2219
116
Thành Thái 15
Khá đầy đủ
15 
ST.2263
102
x
Khá đầy đủ
16 
Kim Sinh
ST.2217
44
x
Thiếu đầu, cuối
17 
Long Tôn
VNv.676
24
x
Khá đầy đủ
18 
Lục Sao
VNv.676
10
x
Chưa rõ
19 
Lương Quân -Bjoóc Lả
VNb.162
67
Bảo Đại 18
Khá đầy đủ
20 
Lương Quân -Ngọc Nữ
ST.2209
39
Kỉ Sửu
Khá đầy đủ
21 
ST.2221
40
x
Thiếu đầu, cuối
22 
ST.2261
73
VNDCCH13
Khá đầy đủ
23 
Lưu Bình -Dương Lễ
ST.2237
58
Bảo Đại 5
Khá đầy đủ
24 
Lưu Đài - Hán Xuân
VNv.607
136
Bảo Đại 2
Khá đầy đủ
25 
VNv.668
126
x
Thiếu đầu, cuối
26 
VNv.672
176
Khải Định 10
Khá đầy đủ
27 
VNv.685
114
x
Thiếu đầu, cuối.
28 
ST.2241
140
x
Thiếu phần cuối
29 
ST.2244
142
Bảo Đại 9
Thiếu phần đầu
30 
ST.2266
164
x
Thiếu phần đầu
31 
Lưu Tú
ST.2233
144
Bảo Đại 12
Thiếu phần đầu
32 
Lưu Tương
VNb.161
100
x
Khá đầy đủ
33 
VNb.163
76
x
Khá đầy đủ
34 
ST.2150
24
x
Thiếu phần cuối
35 
ST.2242
90
Duy Tân 7
Khá đầy đủ
36 
Lý Lan
ST.1998/38
22
x
Thiếu đầu, cuối
37 
ST.2277
97
Bảo Đại 8
Thiếu phần cuối
38 
Lý Lan - Thị Dung
ST.2163
72
Thành Thái 16
Khá đầy đủ
39 
Mây Ngần
ST.2168
64
x
Thiếu đầu, cuối
40 
Mẫu Đơn
ST.2205
67
x
Thiếu phần đầu
41 
ST.2240
62
Khải Định 3
Khá đầy đủ
42 
Minh Nga - Ngọc Sinh
ST.2224
34
Khải Định 6
Khá đầy đủ
43 
Nam Kim - Thị Đan
VNv.604
37
x
Thiếu phần đầu
44 
ST.2157
67
x
Thiếu phần cuối
45 
ST.2207
47
x
Thiếu đầu, cuối
46 
ST.2274
27
x
Thiếu phần đầu
47 
ST.2275
24
VNDCCH 2
Thiếu phần cuối
48 
ST.2276
36
x
Thiếu đầu, cuối
49 
Nhân Hiệu
ST.2218
201
x
Thiếu phần cuối
50 
Nhân Lăng
ST.2265



51 
Nc.505



52 
Phạm Tải - Ngọc Hoa
VNb.164
38
x
Thiếu phần cuối
53 
ST.2205
48
x
Khá đầy đủ
54 
ST.2234
47
Khải Định 8
Thiếu phần đầu
55 
ST.2243
67
Khải Định 9
Khá đầy đủ
56 
Ngọc Hoa
ST.2225
38
Bảo Đại 5
Thiếu phần đầu
57 
Quảng Tân - Ngọc Lương
VNv.673
59
Khải Định 2
Khá đầy đủ
58 
VNv.676
52
x
Khá đầy đủ
59 
ST.1099
42
Bảo Đại 8
Thiếu phần đầu
60 
ST.2159
22
x
Thiếu đầu, cuối
61 
ST.2229
61
Khải Định 9
Thiếu phần cuối
62 
ST.2236
72
x
Khá đầy đủ
63 
Slam Péc-En Tài
ST.5490



64 
Tạng Ba
ST.2152
96
x
Thiếu phần đầu
65 
Tần Chu
VNv.592
144
Duy Tân 6
Khá đầy đủ
66 
VNv.593
140
x
Thiếu phần đầu
67 
VNv.594
156
Thành Thái 13
Thiếu phần đầu, phần cuối.
68 
VNv.595
194
x
Thiếu đầu, cuối.
69 
ST.1998
/83
140
Khải Định 2
Khá đầy đủ
70 
ST.2231
148
x
Thiếu đầu, cuối
71 
ST.2238
142
x
Thiếu đầu, cuối
72 
Toọng Tương
VNv.605
34
x
Khá đầy đủ
73 
Tống Kim-Từ Thị
ST.2162
60
x
Khá đầy đủ
74 
Tống Trân - Cúc Hoa
VNv.600
144
x
Thiếu đầu, cuối.
75 
VNv.601
144
x
Thiếu phần đầu
76 
VNv.602
100
x
Thiếu đầu, cuối
77 
VNv.676
97
Khải Định 7
Thiếu phần đầu
78 
ST.2164
76
x
Thiếu đầu, cuối
79 
ST.2172
196
Thành Thái 18 (đầu)
Bảo Đại 8 (cuối)
Khá đầy đủ
80 
ST.2220
52
x
Khá đầy đủ
81 
ST.2222
61
x
Thiếu phần đầu
82 
Truyện đời Hán
ST.2277
64
x
Thiếu phần đầu
83 
Trương Hán - Mẫu Đơn
ST.2230
59
x
Khá đầy đủ
84 
Tương Anh
ST.2159
9
x
Thiếu đầu, cuối
Như vậy, theo số lượng thống kê chưa đầy đủ, chỉ tính riêng trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã có hàng trăm văn bản truyện thơ viết bằng chữ Nôm Tày ghi chép gần 40 truyện thơ Nôm của đồng dân tộc Tày.
Ngoài ra, theo quan điểm của một số học giả nghiên cứu và biên dịch truyện thơ Nôm Tày, số lượng truyện thơ Nôm Tày là những con số lớn hơn nữa và chưa có sự thống nhất: 47 (Lục Văn Pảo), 67 (Triều Ân và Lục Văn Pảo), trên dưới 50 tác phẩm (Tổng tập văn học dân gian Việt Nam, tập 22, tr111)...
Qua đó chúng ta có thể phần nào hình dung được rằng, công tác biên dịch và nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng tự hào, song so với kho tàng truyện thơ Nôm Tày phong phú về số lượng, đa dạng về nội dung thì số lượng truyện thơ Nôm Tày từng được biên dịch mới chỉ chiếm khoảng chưa đầy 1/3 số lượng truyện thơ hiện có. Bên cạnh đó, một phần không nhỏ những truyện thơ đã được biên dịch và công bố có sự lặp lại về số lần xuất bản, số lần tuyển dịch hoặc trích dịch, do đó một bộ phận không nhỏ truyện thơ Nôm Tày vẫn còn trong tình trạng nguyên bản, chưa được biên dịch và quan tâm nghiên cứu khai thác. Thêm vào đó, phần lớn các bản dịch truyện thơ Nôm Tày thường chỉ cung cấp bản dịch thơ tiếng Việt, một số còn lại được cung cấp thêm cả bản phiên âm tiếng Tày, nhưng những bản in kèm cả nguyên bản chữ viết Nôm Tày là rất ít, trong đó tiêu biểu phải kể đến công trình Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc thiểu số Việt Nam do Viện Nghiên cứu Hán Nôm tổ chức biên dịch, Nxb. KHXH xuất bản (đã xuất bản được 8 tập). Điều đó phần nào hạn chế giới nghiên cứu tiếp cận một cách đầy đủ với nguồn tư liệu văn học phong phú của đồng bào Tày bởi sự tồn tại của khoảng cách nhất định từ nguyên bản tiếng Tày đến bản dịch tiếng Việt. Cũng vì thế, việc nghiên cứu nguồn gốc hình thành, thời điểm hình thành, nội dung phản ánh, giá trị nghệ thuật... của truyện thơ Nôm Tày phần nào chưa thể phản ánh hết giá trị vốn có của truyện thơ Nôm Tày.
Do đó, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra trước những nhà biên dịch và nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày là cần tiến hành biên dịch và nghiên cứu, khai thác kho tàng truyện thơ Nôm Tày một cách khẩn trương hơn, có tính hệ thống hơn, khoa học hơn nhằm khai thác được nguồn di sản phong phú và đa dạng không chỉ của riêng đồng bào dân tộc Tày mà của cả nền văn học dân gian thời trung đại Việt Nam.

Chú thích:
(1) Dẫn theo Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam của Phan Đăng Nhật, Nxb. Văn hóa, H. 1981, tr.247.
(2) Lã Văn Lô - Hà Văn Thư. Văn hóa Tày - Nùng. Nxb. Văn hóa, H. 1984, tr.94.
(3) Phan Đăng Nhật: Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nxb. Văn hóa, H. 1981.
(4) Chúng ta xếp vào truyện thơ những tác phẩm văn vần, dài hơi, tổng hợp, vừa có tính chất tự sự vừa có tính chất trữ tình nhưng phần lớn là tự sự, năm trong các bộ phận văn học dân gian mà các dân tộc gọi chung là gầu hay lù chạ (Mèo), khắp (Thái), xướng (Mường)... Ở một số dân tộc Thái, Tày... truyện thơ đó được ghi bằng chữ viết cổ, việc ghi chép này chỉ có mục đích hỗ trợ cho việc lưu truyền bằng hát trong các sinh hoạt diễn xướng văn nghệ dân gian, và hình thức truyền miệng này là chủ yếu.
(5) Phan Đăng Nhật: Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nxb. Văn hóa, H. 1981, sđd, tr.209
(6) Võ Quang Nhơn: Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam. Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, H. 1983.
(7) Võ Quang Nhơn: Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam. Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp. H. 1983, tr.450.
(8) Nguyễn Minh Tuân: Về tác phẩm truyện thơ Tày - Nùng Lưu Đài Hán Xuân. Tạp chí Hán Nôm số 3/2004./.
(Thông báo Hán Nôm học 2009, tr.664-682)

Hoàng Phương Mai