BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ THƠ NÔM THẤT NGÔN BÁT CÚ CỦA NGƯỜI TÀY
BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ THƠ NÔM
THẤT NGÔN BÁT CÚ CỦA NGƯỜI TÀY
PHẠM HOÀNG GIANG
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Người
Tày ngay từ nhiều thế kỷ trước đã biết sử dụng các chất liệu chữ Hán để
tạo nên chữ viết của riêng mình gọi là chữ Nôm Tày. Họ dùng chữ Nôm để
sáng tác các trước thuật mà đến tận ngày nay vẫn được lưu truyền rộng
khắp. Các trước thuật này, gần đây đã được các nhà nghiên cứu tiến hành
phiên âm và giới thiệu một số tác phẩm có giá trị, như truyện thơ Nôm Tần Chu, Quảng Tân, Kim Quế… hoặc các thể loại dân ca Then khảm hải, Lượn cọi
v.v… Song riêng về thơ Nôm thất ngôn bát cú thì vẫn chưa thấy ai giới
thiệu đến. Gần đây, trong một chuyến đi công tác ở vùng núi miền Đông
Bắc, chúng tôi sưu tầm được một tập sách chép khoảng 50 bài thơ viết
theo thể thất ngôn bát cú, miêu tả về những cảnh và các hoạt động diễn
ra trong đời sống thường ngày của người dân vùng cao. Thấy rằng, đây là
mảng tư liệu đặc sắc, nên nhân dịp hội nghị thông báo Hán Nôm học lần
này, chúng tôi xin bước đầu giới thiệu bốn bài thơ để các nhà nghiên cứu
quan tâm cùng tham khảo.
Vài đặc điểm của tập sách
1.
Sách còn nguyên vẹn, gồm 40 tờ, khổ 28x16cm. Bìa sách làm bằng giấy dó
phết cậy, phần trong viết trên chất liệu giấy dó thô và đen, chữ chân
phương có dấu chấm câu bằng son đỏ. Sách không ghi tên, nhưng ở trang
đầu có chép 2 câu trong sách Tứ Tử Kinh là: 天賜聰明聖扶功用Thiên tứ thông minh, Thánh phù công dụng (Trời ban cho trí thông minh, Thánh lại phù giúp cho có công dụng), nên chúng tôi tạm đặt tên cho sách là “天賜聰明Thiên tứ thông minh”.
2.
Các bài thơ trong sách, phần nhiều không ghi niên đại, nhưng ở trang
đầu có ghi ngày 29 tháng 2 năm Canh Thìn, niên hiệu Bảo Đại thứ 15
(1940) lập sách.
3. Cũng ở trang đầu sách có ghi: 黃光抵Hoàng Quang Đã, người thôn Tân Dã, xã Long Đống (Thái Nguyên).
4.
Qua sơ bộ tìm hiểu thấy, tất cả các bài thơ đều được viết bằng chữ Nôm
Việt (Kinh). Do vậy, những người biết chữ Hán và thạo chữ Nôm Việt là có
thể đọc hiểu được văn bản.
Về nội dung các bài thơ
Nội
dung của các bài thơ chủ yếu miêu tả về cảnh vật, khắc hoạ lại những
sinh hoạt thường nhật của người dân miền núi vùng Đông Bắc của tổ quốc,
như tả về việc thăm hỏi, chúc mừng, kết bạn, mùa vụ… đến các con vật
trong gia đình, ngoài rừng v.v… Để giúp cho mọi người có thể thấy rõ hơn
về thể tài thơ Nôm thất ngôn bát cú của người Tày ở vùng Thái Nguyên
này, dưới đây chúng tôi xin giới thiệu 4 bài như sau:
Bài số 1
走自義詩
𥪝𡎝太原縣武尼
初箕隆棟唯傳𠉞
𨷈鼎青山𨒺泣奇
沒𡉕秀水沚𣻆苔
客賢合𩈘𡎢双且
寓𢷲攔𨀈青台
助塊𥘀湄𠊛𠫾吏
樂功作福抵閍𠁀
Tẩu tự nghĩa thi (thơ vừa đi vừa làm)
Trong cõi Thái Nguyên huyện Vũ này
Xưa kia Long Đống dõi truyền nay
Muôn đỉnh thanh sơn(1) quanh khắp cả
Một dòng tú thủy(2) chảy tuôn đầy
Khách hiền họp mặt ngồi thong thả
Ngụ hứng dan tay bước thảnh thơi
Trợ khỏi nắng mưa người đi lại
Nhạc công tác phúc để muôn đời.
Chú thích:
1. Thanh sơn: non xanh.
2. Tú thủy: nước biếc.
Bài số 2
坎克詩
坎克𠁀𠸗未世芾
務春細𦤾㗂消耗
慷克克慷叫捽𣎃
所嘆嘆所於𡽫高
吹𠽖𦲿鐄𢚸洙㤕
底𠊛殊𥈿如袍𣘈
雪再㐌戈催停盡
長生買買自先桃
Khảm khắc thi (thơ về chim Khảm Khắc)(1)
Khảm Khắc đời xưa vị(2) thế nào
Mùa xuân tới đến tiếng tiêu hao(3)
Khăng khắc khắc khăng kêu suốt tháng
Thở than than thở ở non cao
Xui giục lá vàng lòng chua xót
Để người thù ngóng như bào son(4)
Tuyết tưới đã qua thôi đành tận
Trường sinh mãi mãi tự tiên đào.
Chú thích:
1. Khảm
khắc: Là loại chim rừng lông đen, to như con chim quốc. Tương truyền
ban ngày hai vợ chồng chim Khảm Khắc đi kiếm ăn rồi lạc nhau. Đêm đến,
hai vợ chồng tìm gặp nhau, phát ra những tiếng hót não nùng, tha thiết
suốt đêm trường. Trong văn học Tày, hình tượng chim Khảm Khắc biểu thị
lòng thương nhớ nhau, tìm ngóng, mong chờ…
2. Vị: chưa rõ nghĩa.
3. Tiêu hao: tin tức
4. Bào son: áo bào đỏ.
Bài số 3
鳴詩
𠄩𦑃捕子丑寅
𤠄箕𠱄嘅㗂云云
形殊顏色堆花月
𠄩𦑃美苗𠬠馬春
店咏議𢥷閒𠬠節
𣈗時媒酌祝𠀧旬
店𣌉𣛯逐調人
奇創特愛恩
Kê minh thi (thơ gà gáy sáng)
Hai cánh phô ra Tý, Sửu, Dần
Gà kia miệng gáy tiếng vân vân
Hình thù nhan sắc đôi hoa nguyệt
Hai cánh mỹ miều một mẽ xuân
Đêm vắng nghỉ ngơi nhàn một tiết
Ngày thời mối chước chúc ba tuần
Đêm khuya dạo dục điều nhân nghĩa
Cả sáng được ra nghĩa ái ân.
Bài số 4
貓詩
貓箕身色世間芾
別迭𠄩 吏別搞
丁筆𡉕浪如侶布
真 庄洛几肖曹
惵茹糝𡎝安樑柱
域渃求民朗波桃
扒𤝞其尼時時㗂
𤈜蓮安養𡊲㗂敖
Mèo thi (thơ con mèo)
Mèo kia thân sắc thế gian nào
Biết giật hai tay lại biết cào
Đinh bút dùng dằng như Lã Bố
Chân tay chạc lạc kẻ Tiêu Tào
Đẹp nhà tám cõi an lương trụ(1)
Vực nước cầu dân lắng ba đào(2)
Bắt chuột kỳ này thời thời tiếng
Chói sen an dưỡng chỗ tiếng nghiêu(3)
Chú thích:
1. An lương trụ: giữ yên cho giường cột của xã tắc.
2. Lắng ba đào: khiến cho sóng dữ phải lắng xuống. Ý cả câu muốn nói “xã hội yên bình hết chiến tranh”.
3. Ý cả câu nói: “Mèo có công bắt chuột được chủ nuôi dưỡng”./.
Thông báo Hán Nôm học 2006 (tr.184-188)
(Có file word đính kèm)
(Có file word đính kèm)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét