MẢNG THƯ TỊCH NÔM TÀY - NÙNG HIỆN LƯU TRỮ TẠI KHO SÁCH VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM
MẢNG THƯ TỊCH NÔM TÀY - NÙNG HIỆN LƯU TRỮ TẠI
KHO SÁCH VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN NÔM
NGUYỄN MINH TUÂN
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Trong
hệ thống văn tự khối vuông của các dân tộc ít người ở Việt Nam thì chữ
Nôm Tày - Nùng được sử dụng khá phổ biến. Điều đó cho thấy, ngoài hệ
thống văn tự Hán, người Tày - Nùng ngay từ xưa đã sáng tạo ra loại hình
chữ mới cho riêng mình, gọi là chữ Nôm Tày - Nùng. Đó là một trong những
sáng tác lớn lao có tính chất độc lập, tự chủ. Nó đã sống và phát huy
vai trò tích cực trong một giai đoạn lịch sử khá dài. Nhờ vậy đã làm nên
nhiều tác phẩm thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống tinh thần và
truyền tải đến ngày nay những giá trị truyền thống vô cùng quý báu trở
thành một bộ phận quan trọng trong kho di sản văn hoá thành văn của Việt
Nam.
Bài
viết này chỉ là vài nét về hiện trạng một số văn bản Nôm Tày - Nùng
hiện đang lưu giữ tại kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm, nhằm cung cấp
một số thông tin để bạn đọc tham khảo.
I. Về văn bản:
Nhìn
chung các văn bản Nôm Tày - Nùng hiện đang lưu giữ tại kho sách Viện
Nghiên cứu Hán Nôm phần lớn bị rách nát, hoặc mất một số trang đầu, hoặc
thiếu một số trang cuối. Qua thống kê bước đầu thấy có 74 đầu sách các
loại, trong đó phần nhiều là sách truyện cổ được viết theo thể thơ thất
ngôn trường thiên, như: Tần Chu-Quyển Vương; Đính Quân; Lưu Đài-Hán
Xuân; Lưu Trương; Phạm Tải-Nguộc Va; Toọng Tương; Lượn tứ quý; Lượn Cọi;
Sli Lẩu; Văn Than; Then; Sli mẩng pi mấư v.v…
Ngoài số sách trên, hiện còn có trên 300 đầu sách khác nữa mới sưu tầm, chưa có ký hiệu thư viện, như: Then khảm hải (Then vượt biển), Mài xe (văn tự trao nhà táng cho người chết trước khi đưa tang), Lượn sử (Hát sử), Phụt pây tàng (Bụt đi đường), Phong slư (Thơ tình của trai, gái gửi cho nhau), Nà ngần (ruộng vàng ruộng bạc), Tuyện nàng Từ Thị (Truyện nàng Từ Thị), v.v… không nằm trong phạm vi bài viết này.
Qua
74 văn bản nêu trên, thấy có 20 đầu sách là còn nguyên vẹn, còn lại bị
rách mất một số trang đầu, hoặc nát một số trang cuối. Điều này gây rất
khó cho việc xác định tên tác phẩm, tác giả và niên đại của cuốn sách.
Có lẽ cũng vì điều này mà Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm chưa xác định
đúng tên tác phẩm nên chỉ đề tên chung chung là Nùng thư hoặc Nùng thư loại… Vậy để tiện cho tra cứu, việc trả lại tên sách theo đúng nội dung là việc cần thiết. Ví như, sách có ký hiệu: VNv.603 phải là Tuyện Kim Quế; VNv.619 phải là Tuyện Đính Quân; VNv.689 phải là Lượn Cọi; VNv.684 phải là Hát then; VNv.692 phải là Sli lẩu v.v…
II. Về niên đại và tác giả:
a. Về niên đại:
Qua
74 văn bản nêu trên, hiện chỉ thấy 15 văn bản có ghi niên đại sao chép,
sớm nhất là năm Thiệu Trị 1 (1841); muộn nhất là năm Bảo Đại thứ 10
(1935) và muộn hơn nữa vào thời Việt Nam dân chủ cộng hoà, xin xem biểu
thống kê dưới đây:
BẢNG THỐNG KÊ NIÊN ĐẠI SAO CHÉP TÁC PHẨM
Số TT
|
Tác phẩm
|
Ký hiệu
|
Niên đại sao chép
|
1.
|
Lượn cọi
|
VNv.598
|
Thiệu Trị nguyên niên (1841)
|
2.
|
Tần Chu
|
VNv.594
|
Thành Thái 10 (1898)
|
3.
|
Tục ngữ
|
VNv.689
|
Thành Thái 15 (1903)
|
4.
|
Hát then
|
VNv.680
|
Thành Thái 17 (1905)
|
5.
|
Tần Chu
|
VNv.592
|
Duy Tân 6 (1912)
|
6.
|
Lượn cọi
|
VNb.171
|
Duy Tân 9 (1915)
|
7.
|
Đính Quân
|
VNv.673
|
Khải Định 2 (1917)
|
8.
|
Then
|
VNv.691
|
Khải Định 5 (1920)
|
9.
|
Sli lẩu
|
VNv.674
|
Khải Định 6 (1921)
|
10.
|
Lượn cọi
|
VNv.693
|
Bảo Đại 2 (1927)
|
11.
|
Tiết thư
|
VNb.684
|
Bảo Đại 4 (1929)
|
12.
|
Shi lẩu
|
VNv.683
|
Bảo Đại 10 (1935)
|
13.
|
Phuối pác
|
VNv.697
|
Bảo Đại 10 (1935)
|
14.
|
Giải bệnh phù chú
|
VNv.690
|
Mậu Ngọ (?)
|
15.
|
Sách cúng
|
VNv.596
|
Việt Nam dân chủ cộng hoà.
|
Qua
bảng thống kê trên cho thấy không chỉ riêng ở vào những giai đoạn đó mà
phải là trước nữa, vấn đề chữ Nôm có vai trò quan trọng trong việc phát
triển văn hoá dân tộc không những ở người Kinh mà còn cả người Tày -
Nùng… cùng sáng tạo nên nền văn hiến nước nhà.
b. Về tác giả:
Nhìn
chung các văn bản Nôm Tày - Nùng có ghi chép tác giả không nhiều mà đa
số là khuyết danh. Hiện chỉ thấy 14/74 văn bản có ghi người sao chép như
sau:
1. Truyện Đính Quân (VNv.619) do Đinh Thiên Cộp 丁天口, Bản Giang, xã Thuần Mang, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Cạn, sao.
2. Văn than (VNv.698) do Lương Kim Phúc 梁金福, xóm Nà Rao, sao.
3. Lượn cọi (VNv.688) do Nông Đình Vinh 農廷榮, châu Thạch Lâm, Cao Bằng, sao.
4. Giải bệnh phù chú (VNv.690) do Hoàng Nguyên Quang 黃元光, chép.
5. Then (VNv.691) do Hoàng Văn Bế 黃文閉, chép.
6. Kim lạp kinh (VNv.681) do Lưu 劉Lợi 利 chép.
7. Lượn cọi (VNb.171) do Ma Đức 麻德, /// ký; Ma Thịnh Phong 麻盛豐, ký.
8. Sli slip sloong bươn (VNb. 165) do Hoàng Hiển Chương 黃顯章, chép.
9. Lượn cọi (VNv.598) do Phan Nho Châu 潘儒珠, chép.
10. Toọng Tương (VNv.605) do Nông Đình Hưng 農廷興, ghi.
11. Lượn cọi (VNb.154) do Đệ tử La Minh Huy 羅明煇, ghi.
Như
vậy, qua số lượng tác giả vừa nêu trên đều không thấy ghi chức danh hay
quan tước. Cho nên rất có thể họ là những nho sĩ bình dân hoặc giả là
những thày mo, tào, then, phựt hoặc nữa là những trưởng bản, già làng ghi chép lại.
III. Về nội dung các tác phẩm
Vấn
đề nội dung các tác phẩm Nôm Tày - Nùng thì khá phong phú và đa dạng.
Song chủ yếu là phản ánh cuộc sống của người dân lao động chứa đựng đức
tính ở hiền gặp lành, tình thân khuyến thiện, chống thói hư tật xấu, ca
ngợi trí thông minh, lòng dũng cảm của những người dân nghèo khổ, đề cao
đức tính lao động cần cù, ca ngợi tình bạn bè trước sau như một, tình
vợ chồng thuỷ chung, đề cao tinh thần đấu tranh chinh phục thiên nhiên,
chống cường quyền ác bá, vua quan tàn bạo… Điều đó được thể hiện rất rõ
trong các tác phẩm, như: Nam Kim-Thị Đan, Tần Chu-Quyển Vương, Lưu Đài-Hán Xuân, Kim Quế cổ tuyện v.v…
Để tiện theo dõi từng thể loại của các tác phẩm, xin tạm chia các loại như sau:
Văn bản về ngôn ngữ-văn học:
- Thành ngữ và tục ngữ (VNv.689).
- Nhân Lăng cổ truyện (VNv.?).
- Kim Quế cổ truyện (VNv.603).
- Đính Quân cổ truyện (VNv.619; VNv.673).
- Sam Péc-Eng Tài (VNv.606).
- Phạm Tải-Nguộc Va (VNb.164).
- Lưu Đài-Hán Xuân (VNv.607; VNv.685; VNv.668; VNv.672; VNv.676).
- Nam Kim-Thị Đan (VNv.604).
- Bjoóc Lả (VNv.162).
- Lưu Trương cổ truyện (VNb.161; VNb.163).
- Cúc Va truyện (VNv.601).
- Toọng Tương (VNv.605).
- Tần Chu-Quyển Vương (VNv.592; VNv.593; VNv.594; VNv.595).
- Phuối pác: Lời hát đối của nam nữ (VNv.697).
- Sli lẩu (NC.51; NC.52; VNv.609; VNv.692; VNv.693; VNv.694; VNv.695; VNb.160; VNb.166; VNv.674; VNv.683).
-
Lượn cọi (VNb.152; VNb.153; VNb.154; VNb.156; Vnb.157; VNb.158;
VNb.171; VNb.173; VNv.598; VNv.687; VNv.688; VNv.689; VNv.671; VNv.693).
- Sli slip sloong bươn: Hát 12 tháng (VNb.165).
- Then (VNv.684; VNv.691; VNv.594; VNv.669; VNv.680; VNv.674; VNv.679).
- Shi mẩng pi mấu (NC.55).
Văn bản về lịch và liên quan đến lịch:
- Chiêm nghiệm niên tuế (VNb.172).
- Kim lạp kinh: Kinh so sánh lịch tuổi nam nữ (VNv.681).
Văn bản về y:
- Chiêm bệnh hành (VNv.675).
- Giải bệnh phù chú (VNv.690; VNv.678).
Văn bản về phong tục:
- Tiết thư: Văn viết về các tiết lễ (VNb.684).
- Văn than (VNv.698; VNv.682; VNb.170; VNb.192).
- Giao nhân phá lí minh: Các điều nói về ăn ở và đạo đức (VNb.155; VNb.159).
- Sách cúng (VNb.167; VNb.168; VNv.698; VNv.596; VNv.682).
Như
vậy, tuy mới bước đầu thống kê cũng đủ thấy mảng thư tịch Nôm Tày -
Nùng khá phong phú. Dưới đây xin đơn cử vài chủ đề như sau:
1. Shi, Lượn:
Là loại hình tình ca của đồng bào Tày, Nùng. Tức là hát ví, hát giao
duyên giữa thanh niên nam nữ. Hàng năm, các thanh niên nam nữ mỗi khi
đến thăm hỏi nhau trong những ngày hội, ngày tết, ngày cưới v.v… đều hát
Shi hát Lượn.
Nội dung của những bài Shi, Lượn
là một số bài ca cổ điển đã được ghi chép thành văn, được bổ sung và
gọt giũa. Tất cả đều đề cập đến nhiều vấn đề có liên quan đến đời sống,
kinh tế, văn hoá, xã hội của đồng bào. Đây là hình thức dân ca phong phú
và phát triển hơn cả.
2. Phuối pác-Phuối rọi
(Đối đáp ứng khẩu): Đây là loại hình dân ca trữ tình phổ biến của người
Tày - Nùng. Nguyên trước, những câu lượn ứng khẩu này không có vần, sau
này người ta gọt giũa trau chuốt thành những câu có vần chặt chẽ và dài
hơn để truyền tụng cho nhau, có khi thành khúc lượn.
Nội dung của Phuối pác, phuối rọi
thường biểu thị tình cảm yêu đương của những đôi trai gái, cũng có loại
chê bai, châm biếm, mỉa mai, phê phán những thói hư tật xấu trong nội
bộ nhân dân.
3. Shi lẩu (hát đám cưới): Ở dân tộc Tày - Nùng mỗi khi có đám cưới, bên nhà trai cũng như bên nhà gái chọn một người đại diện (gọi là Pú, Ta) để hai bên giao thiệp với nhau. Do đó, người đại diện phải có tài năng ăn nói, biết chữ, biết làm thơ v.v…
Nội
dung của thể loại này rất nhiều vẻ và đậm đà màu sắc địa phương. Đặc
điểm của thơ ca đám cưới là vui mừng, dí dỏm, đồng thời lại phải sắc bén
về lý lẽ để thuyết phục đối phương, vì đại diện nhà gái có ý đưa ra
nhiều vấn đề "hóc búa" để thử thách tài năng, trí tuệ của đại diện nhà
trai.
4. Hát then:
Đây là loại hình nghệ thuật mặc dù có tính chất và hình thức nghi lễ
tôn giáo, nhưng rất đậm đà màu sắc văn hóa dân gian. Nó thường được dùng
vào việc cầu phúc mùa màng, cúng lễ cho người ốm hoặc các cuộc vui chơi
giải trí, như: Lẩu then, cấp sắc, kỳ yên…
Đặc điểm của hát Then khác với Sli lượn là giai điệu có tiết tấu, tiết phách rõ ràng. Khi hát bao giờ cũng kèm theo với nhạc tính tẩu hoặc chùm nhạc xóc đệm theo. Hát then nếu tước bỏ những yếu tố mê tín, nó là loại hình nghệ thuật âm nhạc có giá trị cao.
5. Sách cúng:
Theo tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc Tày - Nùng, linh hồn người chết
vẫn tiếp tục sống ở bên kia thế giới và có thể can thiệp vào công việc
của những người còn sống. Cho nên phải làm ma linh đình, tìm chỗ tốt để
chôn người chết, để cho người chết được mồ yên mả đẹp, do đó đỡ quấy
nhiễu con cháu. Những tín ngưỡng đó còn đậm nét trong người Tày - Nùng,
do đó xuất hiện những tín đồ của Đạo Giáo là các thầy tào, mo, then, pụt chuyên làm nghề cúng bái, trừ tà bắt quỉ để chữa bệnh cho mọi người v.v…
Ngoài
lượng sách nêu trên, mảng thư tịch chữ Hán ghi chép về các sự kiện, các
nhân vật anh hùng dân tộc Tày - Nùng khá nhiều, như: Cao Bằng kí lược A.999; Cao Bằng thành hãm sự kí A.1379; Cao Bằng thực lục A.1129; Liệt tỉnh phong vật phú A.1173; Tống Lý bang giáp tạp lục VNv.1317; Nam hành tập A.2367; Tái sinh sự tích A.1022; Thành chương hợp tuyển VHv.2008 v.v… Trong đó cuốn Cao Bằng thực lục A.1129
do Ninh Sóc, Lâm Khê Nguyễn Hựu Cung soạn và viết tựa năm Gia Long 9
(1810). Có ghi chép các vị thần có đền thờ ở Cao Bằng, như: Khâu Sằm Bà Hoàng tuyện (truyện nhà Nùng Trí Cao); nhân vật Nguyễn Hựu Cung, ông vốn họ Bế được vua Gia Long cho đổi thành họ Nguyễn v.v…
Đến
đây, chúng ta có thể nói: Nhờ vào hệ thống văn tự Nôm chuyên dùng ghi
tiếng nói dân tộc của mình, từ nhiều thế kỷ nay, chắc chắn là sau sự
xuất hiện của âm Hán - Việt và sau chữ Nôm Việt, người Tày - Nùng đã tạo
nên hàng loạt văn bản thuộc các nội dung văn học, lịch sử, giáo dục,
nông nghiệp… truyền lại đến ngày nay các giá trị tinh thần bất hủ. Qua
đó, chúng ta có thể nghiên cứu lịch sử, văn hoá cùng văn học nghệ thuật
nhiều màu nhiều vẻ của dân tộc Tày - Nùng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét