Đôi nét về Then Tày - Nùng vùng Việt Bắc
Hát Then là một loại hình diễn xướng tiêu biểu mang đậm văn hóa Tày - Nùng của vùng Việt Bắc. Then gắn với đời sống tâm linh và tín ngưỡng của người Tày - Nùng, góp phần làm nên bản sắc văn hóa của cộng đồng Tày - Nùng. Hát Then, đàn tính là linh hồn cho các lễ nghi, hội hè như: Then giải hạn, Then khai rượi, Then kỳ yên, Then cứu bệnh, Cầu mát, Lẩu pụt (Then lẩu), Then thượng thọ, Then hợp hôn…
Nghệ
thuật Hát Then của dân tộc Tày, Nùng Việt Bắc có một quá trình phát
triển lâu dài, gắn bó mật thiết với cuộc sống lao động, sản xuất, đấu
tranh dựng nước và giữ nước, ngày một hoàn thiện về nghệ thuật, có sắc
thái dân tộc, phong cách và sắc màu
riêng của nó. Chính vì vậy, nghệ thuật hát Then luôn là nguồn cảm hứng
sáng tác vô tận cho các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ và được đông đảo quần
chúng nhân dân các dân tộc yêu thích, đồng thời được Đảng, Nhà nước ta
đánh giá cao và được coi trọng là một trong những di sản văn hóa phi vật
thể quý báu trong kho tàng văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam phải được giữ gìn, kế thừa và phát triển.
1. Âm nhạc trong Hát Then
Thang âm, điệu thức
Thang âm: là sự sắp xếp các âm thanh theo một thứ tự cao độ. Mỗi âm trong thang âm được gọi là các bậc của nó.
Cho
đến nay, khái niệm về thang âm chưa hoàn toàn thống nhất. Cùng với cách
hiểu trên đây còn có những ý kiến khác cho rằng: thang âm là một khái
niệm để chỉ tập hợp thành phần âm trong bài chỉ có 3,4 bậc, trong đó có
một bậc nổi rõ tính ổn định hơn các bậc khác. Do vậy, âm này được gọi là
âm gốc của thang âm.
Điệu Thức:
là một khái niệm đã được chuẩn định về mặt ý nghĩa và hầu hết các nhà
nghiên cứu âm nhạc dân gian đều thống nhất ý kiến cho rằng: điệu thức là
một khái niệm để chỉ mối quan hệ về các bậc trong thang âm.
Dạng thứ nhất: Điệu thức 5 âm.
Dạng thứ hai: Điệu thức 5 âm kết hợp với thang 4 âm.
Âm điệu
Âm điệu
thực chất là mối quan hệ về độ cao. Trong dân ca nói chung và trong hát
Then của người Tày, Nùng nói riêng, âm điệu không tách rời khỏi mối
quan hệ với một số yếu tố của ngôn ngữ dân tộc như: ngữ âm, ngữ nghĩa.
Ngày nay,
trong hát Then ta còn thấy có những đoạn nhạc mà toàn bộ cao độ phần âm
nhạc theo âm điệu dấu giọng của lời thơ như: những đoạn Then đoán về
tương lai, về số phận và dặn dò con cháu dưới trần gian. Ở những đoạn
này, âm điệu hoàn toàn phụ thuộc vào âm điệu tiếng nói. Như vậy, tiếng
nói giàu âm điệu được xem như dạng đầu tiên mầm mống của âm nhạc.
Lối hát trong Then
Lối hát đọc thơ
Là lối
hát biểu hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa thơ ca và âm nhạc. Ở đây, phương
thức phát triển giai điệu thường là sự lặp đi, lặp lại của một hoặc hai
hướng chuyển động giai điệu đơn giản, số lượng âm sử dụng không nhiều.
Lối hát đọc thơ phù hợp với việc thể hiện những nội dung cảm xúc mộc
mạc, từ tốn, dõng dạc, khỏe mạnh và có một nhịp điệu rõ ràng, mạch lạc.
Trong
Then, dạng lối hát đọc thơ chiếm đa phần và thường xuất hiện ở những
chương đoạn mang tính chất cầu khẩn, thông báo, đệ trình một công việc
nào đó khi Then tiếp xúc với thế giới “thần linh” như đoạn “soi hương
lập mạ” (mở đầu của cuộc Then), đoạn xỉnh đẳm (thông báo xin phép tổ
tiên), đoạn “giải vía” có nơi gọi là giải vẻ hay cẩm thế, hoặc là những
chương đoạn đi đường được hát lặp đi, lặp lại.
Lối hát ngâm
Lối hát
này thường thể hiện tính chất dàn trải, ngâm ngợi, nhịp điệu tự do hơn
so với hát đọc thơ. Giai điệu âm nhạc trong lối hát ngâm thường xuất
hiện những nốt tô điểm, trang sức phù hợp với lối hát ngâm ngợi trong
văn chương và sự mềm mại, uyển chuyển co dãn về nhịp điệu, nó rất phù
hợp trong việc thể hiện những cảm xúc trữ tình, sâu lắng của nội tâm.
Phương thức phát triển giai điệu của lối hát ngâm về cơ bản giống hát
đọc thơ, đó là khi tiến hành giai điệu các câu thường lặp lại dáng dấp
của nhau.
Lối hát pha trộn hát đọc thơ và hát ngâm
Giai điệu
ở dạng này có sự uyển chuyển, linh hoạt khá tinh tế. Nhịp điệu, cú pháp
không mang tính đơn điệu, đơn giản như hát nói nhưng cũng không quá
phức tạp về hình thái giai điệu và không thiên về sự trau chuốt, tô điểm
như hát ngâm. Giai điệu âm nhạc phát triển tương đối độc lập, có sự
phân ngắt câu cú rõ nét hơn hai dạng trên. Do tính pha trộn nên phương
thức phát triển giai điệu của lối hát này phong phú đa dạng, có ưu thế
diễn đạt được nhiều sắc thái, cảm xúc. Trong Then, những giai điệu pha
trộn 2 lối hát đọc thơ và hát ngâm thường gặp ở những chương đoạn mang
nội dung kể truyện về một công việc cần phải làm hoặc đang làm trong
cuộc Then.
Tiết tấu, nhịp điệu
Tiết tấu
là mối tương quan về trường độ của các âm thanh nối tiếp nhau. Trong
Then nói riêng và trong âm nhạc nói chung, tiết tấu đóng vai trò rất
quan trọng trong một tác phẩm âm nhạc. Loại tiết
tấu có phân nhịp phách thường được thể hiện qua loại nhịp đơn có một
trọng âm. Loại tiết tấu không phân nhịp phách thường thấy ở lối hát
ngâm. Giai điệu có tính chất tự sự, giãi bày tâm tư tình cảm.
2. Lời ca
Lời ca trong hát Then được biểu đạt chủ yếu bằng ngôn ngữ Tày - Nùng. Lời ca
được truyền miệng từ thế hệ này qua thế hệ khác nên đôi khi cũng bị
“Tam sao thất bản”. Lời ca trong hát Then thường là những vần thơ tự do,
không theo một qui định nào cả, có bài viết ở thể thơ 5 chữ, có bài ở thể thơ 7 chữ nhưng thể thơ phổ biến thường là 5 chữ và 7 chữ đan xen.
Bên
cạnh cấu trúc thơ 5 chữ, 7 chữ là chủ yếu, lời ca trong hát Then còn
gặp cấu trúc thể thơ tự do (xen kẽ giữa thơ 3 chữ với 5 chữ, 3 chữ với 7
chữ, 4 chữ với 8 chữ…). Loại thể thơ tự do này cũng ảnh hưởng ít nhiều
tới cấu trúc câu, đoạn của âm nhạc trong hát Then.
Ảnh: Liên hoan nghệ thuật hát Then các dân tộc Tày, Nùng năm 2015 (Nguồn: st)
Nội dung
lời ca trong hát Then là một trong những yếu tố quan trọng và thu hút
nhiều người yêu thích hát Then. Nội dung trong một cuộc Then trước hết
phản ánh tư tưởng, tình cảm, nguyện vọng, ước mơ của người Tày - Nùng,
phản ánh hiện thực xã hội phong kiến xưa. Trong mỗi đoạn hát đều có cốt
truyện, nhiều chuyện mang tính thần thoại, yếu tố tâm linh nên nó gần
gũi với quần chúng nhân dân. Nhìn chung, lời ca trong hát Then còn mang
tính ước lệ, phóng đại… nhưng qua tác phẩm có thể thấy được ý tứ của nó,
thấy được chính con người thật, con người với canh tác ruộng nương ở
miền núi.
3. Nhạc cụ trong Then
Hát
Then bao giờ cũng phải đệm bằng Tính tẩu kết hợp cùng chùm xóc nhạc mới
đúng tính chất hát Then. Vì thế, nếu thiếu một trong hai nhạc cụ này
thì không thể thành diễn xướng Then được.
Tính tẩu
Tính
tẩu là tên gọi có nguồn gốc từ người Tày Cao Bằng. Cũng có nơi gọi là
“Ăn tẩu” (một cách gọi dân dã của người dân xã Tân An), “Tàn” hay “Đàn”
là do cách dịch ra tiếng phổ thông. Vì vậy, một số nơi còn gọi là “Ăn
tính” hoặc “Tàn tính” với nghĩa đàn tính - giữ nguyên chữ “tính” theo
cách hiểu thông dụng của người Việt: tính là một loại đàn chứ không có
nghĩa tính là “đàn” theo cách hiểu của người Tày. Nhưng sử dụng thông
dụng nhất ở người Tày hiện nay là tính tẩu - tính là đàn, tẩu là bầu và
theo cách gọi của người Việt là “đàn tính”. Một số cách gọi rất phổ
thông do căn cứ vào đặc thù phục vụ của cây đàn trong các nghi thức làm
then nên họ gọi nó là "đàn tính". Từ những cách gọi trên có thể thầy
rằng: tên gọi có thể khác nhau nhưng cùng dựa trên một sự vật cụ thể, đó
là cây đàn tính.
Tính tẩu
là nhạc cụ được sử dụng trong các sinh hoạt nghi lễ Then của người dân
Tày. Không phải ai cũng có thể chơi được đàn. Để làm ra được cây tính
tẩu đòi hỏi rất nhiều yếu tố: biết đàn, biết hát, cảm thụ tốt các âm
thanh vang ra từ cây đàn, cảm nhận được âm sắc của mỗi cây đàn, thật sự
yêu quý cây đàn, hiểu quy trình làm đàn và đặc biệt phải có một đôi bàn
tay khéo léo mới có thể làm được.
Tính tẩu
là một loại nhạc cụ gắn liền với hát Then. Tính tẩu luôn đi cùng với bộ
xóc nhạc, nếu thiếu 1 trong 2 nhạc cụ này thì không thể thành cuộc Then
hoặc diễn xướng Then được. Qua nghiên cứu từ các tài liệu và quá trình
tìm hiểu từ các nghệ nhân, nhạc sĩ chế tác tính tẩu chúng tôi thấy: tính
tẩu có nhiều kích cỡ to, nhỏ, dài, ngắn khác nhau, những cái có kích cỡ
to (bầu đàn) và dài (cần đàn) thì thường có âm thanh to, khỏe, phù hợp
với các giọng nam trầm, ấm. Loại có kích cỡ nhỏ, ngắn thường có âm thanh
cao, sáng phù hợp với giọng nữ nhiều hơn. Chất liệu chính làm nên Tính
tẩu thường là có sẵn ở địa phương như quả bầu làm bầu đàn, gỗ thực mực,
gỗ vông, lõi cây dâu rừng… làm mặt đàn, cần đàn, đầu đàn, khóa đàn, ngựa
đàn. Cách chế tác thường bằng phương pháp thủ công cho nên nó không có
kích thước cố định.
Chùm xóc nhạc
Chùm xóc
nhạc là nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, phương pháp kích âm là rung hoặc
lắc, các vòng tròn nhỏ cùng các quả nhạc (chuông nhỏ) tác động vào nhau
phát ra âm thanh. Chùm xóc
nhạc thường gồm có 2 quả xóc to, 3 quả xóc nhỏ bằng đồng, kèm vào đó là
những vòng khuyên đồng có đường kính 15 đến 18mm, được móc nối với nhau
thành những chuỗi xích dài khoảng 20 đến 25cm, thường là 5 chuỗi, 9
chuỗi, hoặc 15 chuỗi xích, vì vậy người ta căn cứ vào số chuỗi xích để
bổ sung thêm các quả xóc cho phù hợp. Trong quá
trình làm Then, chùm xóc nhạc được các bà Then, ông Then sử dụng theo
nhiều cách. Khi quân binh vượt núi thì nhạc xóc thôi thúc, khi vượt sông
thì tiết tấu nhanh hơn, dồn dập hơn, khi linh hồn nhập vào thì xóc nhạc
tốc độ càng nhanh hơn.
Chùm xóc
nhạc còn được sử dụng riêng cho múa như múa chầu và cũng theo nhiều cách
khác nhau như: xóc nhạc trong múa chèo thuyền, múa quạt, múa tán hoa,
múa chầu lễ, múa chầu tướng đều có sự nhanh, chậm trong tiết tấu, tiết
nhịp. Chùm xóc nhạc phần lớn góp phần việc thôi thúc, khơi dậy tình cảm
con người trong nghi lễ Then. Nếu trong một cuộc Then không có chùm xóc
nhạc, chỉ có cây tính tẩu thì chưa đủ khích lệ tâm lý hưng phấn của
người nghe hát Then. Chùm xóc nhạc được các bà Then, ông Then gìn giữ,
bảo quản ở chỗ linh nghiệm (trên bàn thờ), là một công cụ đắc lực cho
một cuộc nghi lễ của Then, nó chính là một vật thể linh thiêng khi hành
lễ của các ông bà Then.
Hát
Then là một loại hình nghệ thuật tổng hợp chứa nhiều thành tố: ngữ văn,
âm nhạc, mỹ thuật, múa, các trò chơi dân gian… có giá trị về lịch sử,
văn hoá, xã hội và nhiều giá trị khác. Nghệ thuật hát Then là mối liên
kết không thể tách rời giữa nội dung thơ ca và những làn điệu âm nhạc
đầy chất trữ tình kèm theo nghệ thuật múa, các trò diễn…
Nói đến
các tỉnh vùng Việt Bắc là nói đến “cái nôi của Then”. Vì vậy, Then và
hát Then đã đi vào tâm khảm của mỗi người dân trong cộng đồng dân tộc
Tày, Nùng nơi đây. Hát Then là nghệ thuật tinh hoa quý giá của người
Tày, Nùng Việt Bắc, đã tồn tại và phát triển trong cộng đồng dân tộc Tày
- Nùng. Hát Then gắn liền sâu sắc trong đời sống tâm linh của xã hội
người Tày - Nùng và trong kho tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam luôn cần
bảo tồn, phát huy và gìn giữ cho muôn đời sau.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Triều Ân (2000), Then Tày - những khúc hát, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
2. Triều Ân, Hoàng Quyết, Hoàng Đức Toàn (1996), Từ điển văn hóa cổ truyền
dân tộc Tày, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
3. Dương Kim Bội (1978), Lời hát Then, Nxb Văn hóa Việt Bắc
4. Hoàng Đức Chung (1999), Lẩu Then Bjoóc mạ, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
5. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1986), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học XH, Hà Nội.
6. Hoàng Lương (1981), Một số nghi lễ cầu mùa của các dân tộc ít người ở miền Bắc nước ta, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
7. Hoàng Văn Ma - Lục Văn Pảo (1984), Từ điển Việt - Tày - Nùng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
8. Huyền Nga (2012), Cấu trúc dân ca người Việt, Nxb Lao động, Hà Nội.
9. Tú Ngọc (1994), Dân ca người Việt, Nxb Âm nhạc Hà Nội, Hà Nội.
10. Nhiều tác giả (1987), Mấy vấn đề về Then Việt Bắc, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
11. Nhiều tác giả (1993), Văn hóa truyền thống Tày, Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
12. Nhiều tác giả (1994), Giữ gìn và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét