Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2016

LOẠI HÌNH CÂU ĐỐ VIẾT BẰNG CHỮ NÔM TÀY





LOẠI HÌNH CÂU ĐỐ VIẾT BẰNG CHỮ NÔM TÀY
NGUYỄN MINH TUÂN
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Trong những năm gần đây Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã tiến hành sưu tầm và thu mua được một lượng sách Hán Nôm dân tộc thiểu số Việt Nam rất đáng kể, trong đó có mảng thư tịch Nôm Tày. Có thể nói, mảng thư tịch Nôm Tày có rất nhiều loại hình phong phú và đa dạng, như truyện thơ, lượn cọi, lượn 12 tháng, phong slư, then, v.v... Đặc biệt còn thấy có một đề tài nữa là Câu đố. Câu đố (người Tày đọc là Cằm van) là thể loại văn học dân gian phản ánh sự vật hiện tượng theo lối nói chệch. Khi sáng tạo câu đố, người ta tìm đặc trưng và chức năng của từng vật cá biệt và sau đó phản ánh thông qua sự so sánh, hình tượng hóa...
Bài viết này không nhằm mục đích tìm hiểu, đánh giá loại hình câu đố nói chung mà chỉ có tính chất giới thiệu thêm một loại hình về Câu đố của đồng bào Tày đang được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm để các nhà nghiên cứu quan tâm cùng tham khảo.
I. VỀ TÌNH HÌNH VĂN BẢN
Có thể nói, văn bản ghi về Câu đố của các dân tộc thiểu số nói chung, của dân tộc Tày nói riêng là loại hình xưa nay rất ít khi gặp. Trong số lượng lớn sách hiện có tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện chỉ thấy xuất hiện có một văn bản mang ký hiệu St.8792 ghi chép về câu đố. Bản thân văn bản không thấy ghi tiêu đề sách cũng như không thấy ghi niên đại và tác giả sao chép văn bản. Tuy nhiên, căn cứ vào nội dung văn bản nên chúng tôi tạm đặt tên văn bản là Cằm van (Câu đố).
Văn bản có kích thước 18x24cm, gồm 48 trang, mỗi trang khoảng 300 chữ, viết chân phương bằng chữ Nôm Tày.
II. NỘI DUNG VĂN BẢN
Toàn bộ nội dung văn bản là những câu đố (vế ra) và những câu trả lời (vế đáp) hết sức thực tiễn gắn liền với cuộc sống lao động của đồng bào vùng miền núi và trung du phía Bắc đã được người Tày đúc kết và ghi chép ra một cách khá đầy đủ.
Tuy nhiên theo được biết, trong lĩnh vực câu đố người Tày xưa nay chưa được mấy người chú ý. Thực ra đây cũng là lĩnh vực phức tạp; cứ để đó thì ai cũng chấp nhận, nhưng đi vào xem xét phân loại tất sẽ có các ý kiến khác nhau. Dưới đây xin mạnh dạn đề cập và giới thiệu một số câu có tính chất tiêu biểu để làm bằng cứ cho văn bản. Đồng thời, trong quá trình đọc tuyển chúng tôi tạm chia làm hai loại câu đố đơn giản phức tạp để tiện cho việc theo rõi như sau:
1. Đố đơn giản
Nói là đơn giản nhưng không phải đơn giản về nội dung, mà là đơn giản về hình thức đáp (trả lời) ngắn ngọn. Cụ thể đối với loại hình này cũng chia làm hai loại như sau.
* Đố đơn giản loại 1: Có thể coi là tối giản, chỉ hỏi một việc và chỉ cần trả lời một câu, có khi một từ cũng đã đủ. Ví dụ:
- Nặm pắn pé lồng rù (Nước xoáy tròn xuống lỗ) = Xay khẩu (Cái cối xay thóc).
- Vài đăm oóc khỉ khao (Trâu đen ỉa phân trắng) = Khây khẩu nua (Cái đõ xôi).
- Pỏ cáy khao phào lồng lảng (Con gà trắng bay xuống gầm nhà) = Phí nài (Nhổ bọt nước).
* Câu đố đơn giản loại 2: Loại đố này phần hỏi có hai bộ phận; thực ra câu đố có hai vế vần với nhau. Ví dụ:
- Phẩy mẩy tềnh hua, khua léc léc (Lửa cháy đỉnh đầu cười the thé) = Ăn điểu lảo keo (Ống thuốc lào).
- Rẩư nà cải cải, mác lai lồng lòa (Đám ruộng to to, rải đầy quả lai) = Trời đầy sao.
- Slí chím slí choóc, co bjoóc tỉnh chang (Bốn bề tứ bề, bông hoa ở giữa) = Đống lửa nhà sàn.
2. Đố phức tạp
Đố phức tạp là loại đố có vần điệu, có thể ngâm vịnh cả lúc hỏi cũng như lúc trả lời. Nhiều khi có thể coi những bài đố và bài trả lời loại này như những bông hoa lấp lánh nhuần nhị ý thơ; trong chừng mực nào đó, đây có thể coi là những bài Kinh Thi của văn hóa Tày.
* Loại đố thứ nhất:
Đây là loại đố theo bài và có vần điệu xuyên suốt. Số câu của mỗi bài không quy định, nhưng thông thường rất bảo đảm niêm luật thơ thất ngôn trong văn học Tày. Ví dụ:
Thức răng kin hua pi cón pậu?
Thức răng kin bươn cẩu mùa tan?
Thức răng kin hom van mùa dác?
Thức răng kin bươn lạp mùa dên?
Thức răng kin tằng khôn vô ý?
Thức răng kin bươn slí mạn lương?
Thức răng kin tằng puồng bươn hả?
Thức răng kin pền bả pậu khua?
Thức răng khửn hất vua nẳng đén?
Tạm dịch: (Thứ gì ăn đầu năm trước người? Thứ gì ăn tháng chín mùa gặt? Thứ gì ăn thơm ngon mùa đói? Thứ gì ăn tháng chạp lạnh lùng? Thứ gì ăn cả lô vô ý? Thứ gì ăn tháng tư nắng vàng? Thứ gì ăn cả chùm tháng năm? Thứ gì ăn hóa dại người cười? Thứ gì lên làm vua ngồi điện?)
Cằm kẻ (lời giải):
Mác lót kin hua cón pậu.
Mác cam kin bươn cẩu mùa tan.
Mác mị kin hom van mùa dác.
Mác làng kin bươn lạp mùa dên.
Mác tào kin tằng khôn vô ý.
Mác pái kin bươn slí mạn lương.
Mác mặt kin tằng puồng bươn hả.
Mác cại kin pền bả pậu khua.
Mác lải khửn hết vua nẳng đén.
Tạm dịch: (Quả nhót ăn đầu năm trước người; Quả cam ăn tháng chín mùa gặt; Quả mít ăn thơm ngon mùa đói; Quả cau ăn tháng chạp lạnh lùng; Quả đào ăn cả lô vô ý; Quả vải ăn tháng tư nắng vàng; Hồng ăn cả chùm tháng năm; Quả cại ăn hóa dại người cười; Quả lai lên làm vua ngồi điện).
* Loại đố thứ hai:
Loại câu đố này đố nhiều việc với thể thơ ngũ ngôn cũng rất phổ biến. Ví dụ:
Pè răng bấu lồng nặm?
Bằng răng bấu mì xu?
Mu răng bấu mì coọc?
Bjoóc răng bấu pền ăn?
Mằn răng bấu mì roẻng?
Kình răng bấu nủng slửa?
Chựa răng bấu càm tàng?
Nàng răng bấu tắm húc?
Lủc răng bấu kin nồm hác mả...
Tạm dịch: (Mảng gì không đi nước? Ống gì không có quai xách? Lợn gì không có chuồng? Hoa gì không ra quả? Củ gì không có củ con củ phụ bám trên thân? Mình gì không mặc áo? Con gì không đi đường? Nàng gì không dệt cửi? Con gì không bú mẹ vẫn lớn?)
Cằm kẻ (lời giải):
Pè slích bấu lồng nặm.
Bằng cọn bấu mì xu.
Mu đông bấu mì coọc.
Bjoóc lồm bấu pền ăn.
Mằn đông bấu mì roẻng.
Kình cốp bấu nủng slửa.
Chựa rườn bấu càm tàng.
Nàng tiên bấu tắm húc.
Lủc cáy bấu kin nồm hác mả...
Tạm dịch: (Mảng sàn không đi nước; Ống nước trong cọn không có quai xách; Lợn rừng không có chuồng; Hoa lồm không ra quả; Củ rừng không có củ con củ phụ bám trên thân; Mình ếch không mặc áo; Con thạch sùng không đi đường; Nàng tiên không dệt cửi; Gà con không bú mẹ vẫn lớn...)
Ví dụ 2:
Cũng có thể xếp bài Đố gió mười hai tháng vào loại đố phức tạp. Cụ thể, người ra đề chỉ dùng một câu hỏi duy nhất, nhưng người trả lời sẽ không trả lời một câu hỏi đó, mà phải trả lời thành một chuỗi lôgich của sự vật hiện tượng đó. Bài Đố gió mười hai tháng như sau:
- Bươn chiêng lồm thức răng? (Tháng giêng gió thế nào?)
Cằm kẻ (lời giải):
Bươn chiêng lồm pặt oóc.
Bươn sloong lồm pặt moóc liền va.
Bươn slam lồm pặt phja mạy tắc.
Bươn slí lồm pặt phjắc đâng sluôn.
Bươn hả lồm pặt rườn ỳ lẹo.
Bươn xốc lồm pặt dảo pây pài.
Bươn chết lồm pặt muôi tốc tổng.
Bươn pét lồm pặt nặm pja phằng.
Bươn cẩu lồm pặt vằng pja pải.
Bươn slíp lồm pặt khảm cái cằm.
Bươn ết lồm pặt phiêng cái bá.
Bươn lạp lồm pặt dả nao phầy.
Slíp slong bươn lồm pây bấu tẻo.
Tạm dịch: (Tháng giêng gió thổi ra; Tháng hai gió thổi sương mù cùng hoa; Tháng ba gió thổi lật cây ngàn; Tháng tư gió thổi vườn cau lật; Tháng năm gió thổi mạnh nhà kêu cọt kẹt; Tháng sáu gió kéo theo kho thóc; Tháng bẩy gió thổi lúc sương sa; Tháng tám gió thổi cá được mừng; Tháng chín gió vực sâu cá chạy; Tháng mười gió thổi vượt qua bờ; Tháng một gió ngang đầu vượt vai; Tháng chạp gió thổi bà già đang sưởi lửa; Mười hai tháng gió đi qua không về).
Khi hỏi nói:
Thức răng khửn cón mằn?....
(Cây gì mọc trước khoai rừng?).....
Bài giải như sau:
Khau cát khửn cón mằn.
Queng quý khăn cón cáy.
Tào quầy sláy hơn phjôm.
Đi pja khôm hơn nguộn.
Khóp đổng uổn coóc vài.
Mác vai lài rằng tó.
Rằng xao có ngảu khe.
Pài rườn che phân lủa.
Ăn hai tủa tằng mường.
Tha vằn lường thiên hạ.
Cốp khuyết dú cốc nhả ngoòng phân.
Dao đí dú nưa bân ngoòng lẹng.
Pja pjộc dú nặm chỉnh ngòng noòng.
Tạm dịch: (Dây sắn mọc trước khoai rừng; Chim queng quý gáy trước gà; Rêu ở suối nhỏ hơn tóc; Mật cá đắng hơn lá ngón; Cạp của cái nong uốn cong như sừng trâu; Quả vai vằn như tổ o­ng; Mạng nhện như rốn chài; Mái nhà che mưa rột; Mặt trăng tỏa sáng khắp mọi mường; Mặt trời đỏ tỏa sáng mọi nơi; Ếch nhái ở bụi cỏ mong mưa; Ông sao trên trời xanh mong hạn hán; Cá pjộc (cá bống) ở dưới giếng mong mưa). v.v...
Trên đây là vài ví dụ đã được chúng tôi phiên âm dịch nghĩa từ văn bản chữ Nôm Tày. Hy vọng sẽ cung cấp ít nhiều những thông tin hữu ích cho những nhà nghiên cứu quan tâm cùng tham khảo.
(Thông báo Hán Nôm học 2011, tr.944-950)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét