Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2016

HIỆN TRẠNG VĂN BẢN HÁN NÔM Ở HUYỆN NA RÌ TỈNH BẮC CẠN





HIỆN TRẠNG VĂN BẢN HÁN NÔM Ở
HUYỆN NA RÌ TỈNH BẮC CẠN
NGUYỄN THỊ YÊN
Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian
Na Rì là một huyện miền núi thuộc vùng sâu, vùng xa của tỉnh Bắc Cạn, nơi có ba dân tộc cư trú chính là Tày, Nùng và Dao. Một trong những vốn văn hoá cổ mà đồng bào ở đây còn lưu giữ được là nguồn tư liệu văn tự Hán Nôm. Trong thời gian đi điền dã ở Nam Rì vào các năm 1998 và 1999, chúng tôi đã có may mắn được tiếp xúc với các nguồn tư liệu này.
Trước đây, cả 3 dân tộc Tày, Nùng, Dao ở Na Rì đều sử dụng hai loại văn tự chính để viết là chữ Hán và chữ Nôm. Do điều kiện giao thông đi lại khó khăn nên số người biết chữ ở đây không nhiều. Để học được chữ người ta phải sang tận bên Lạng Sơn mới có thầy dạy, sau đó tự học là chính. Các bảo quản và lưu giữ sách trong các gia đình không giống nhau. Có gia đình nhét sách vào trong ống bương nút kín hoặc dùng vuông vải cuộn tròn buộc trong tay nải treo cao nơi góc bàn thờ, hoặc cất ở đáy hòm, đáy tủ… Có nhà nhiều sách thì đựng vào choóng(1). Các choóng sách thường tập trung nhiều loại sách khác nhau: Sách Hán - Việt, sách Nôm Tày, sách Nôm Dao… Nội dung đa dạng: Sách học chữ nho Tam tự kinh, Tứ thư – ngũ kinh, sách ghi chép gia phả, điền sản, sách để hành nghề Tào chiếm tỷ lệ 50 – 60%; sách bói toán, xem chân gà, vân tay, nốt ruồi… sách xem ngày giờ hoàng đạo làm nhà sửa cửa, cưới xin, ghi chép các bài thuốc chữa bệnh theo gia truyền và dân gian…, sách ghi chép văn học dân gian bằng chữ Nôm Tày…
Chủ nhân xa xưa của các kho sách nói trên thường là con cháu của những người mà từ đời kỵ, đời cụ, phó lý, thầy đồ, giáo học. Cũng có trường hợp do tư chất thông minh học lỏm và tự học mà biết đọc, biết viết nên gặp gì, thích gì thì ghi chép lại như trường hợp ông Nguyễn Duy Vi ở xã Kim Hỷ, mất năm 1972, thọ khoảng 70 tuổi.
Dưới đây là tình hình sử dụng chữ Hán Nôm của hai dân tộc Tày và Nùng ở Na Rì:
1. CHỮ HÁN:
Cấu tạo chữ và cách sử dụng giống như ở miền xuôi. Qua khảo sát sơ bộ, các tư liệu liên quan đến việc sử dụng chữ Hán của người Tày, Nùng ở Na Rì gồm:
- Tư liệu hành chính: Giống như ở miền xuôi chữ Hán là văn tự chính để người ta sử dụng viết các văn bản mang tính chất thủ tục hành chính từ cấp xã trở lên. Đó là những thứ giấy tờ có liên quan đến công việc làng xã do các chức sắc trong làng bản như là chánh tổng, lý trưởng thực hiện. Qua giấy tờ gia đình của ông Nông Văn Bằng do con cháu hiện ở xóm Pò Lỳ, xã Xuân Dương còn lưu giữ thì các văn bản được viết vào thời kỳ đầu thế kỷ này gồm: Bản kê khai nhân khẩu trong xã, các bản cam kết công việc làng xã như bản cam kết tuần phòng, trị an giữa các xã trong tổng Côn Minh, giấy nộp thuế vụ mùa các năm từ 1915, 1916 đến 1932, bản kê khai ruộng đất của gia đình, khế ước bán ruộng của các cá nhân có xác nhận của chính quyền xã… Trong đó một số văn bản đã có mẫu sẵn người viết chỉ việc điền nội dung vào như các phiếu thu thuế, giấy khai giá thú…
Ngoài ra còn có các tư liệu mang tính chất gia đình như thư từ trao đổi giữa cá nhân, giấy tờ liên quan đến việc mua bán ruộng đất của gia đình, gia phả của dòng họ. Các văn khế bán ruộng đất là giấy viết tay nhờ người biết chữ trong bản viết hộ có nội dung khác nhau được trình bày ngắn gọn, đủ ý. Một văn khế bán ruộng (sưu tầm ở xã Xuân Dương) có nội dung đại ý như sau: Ông N, vì thiếu tiền tiêu nên lấy thửa ruộng của gia đình đông giáp, tây giáp… bán cho ông M. cùng xóm với giá trung bình, nay làm văn bằng để phòng khi có sự. Những người lập văn khế gồm: Chủ ruộng điểm chỉ, người mua ký, người viết giấy ký, lý trưởng bản xã ký xác nhận.
Trong các gia đình có người biết chữ thường có lập gia phả của dòng họ. Đến nay, một số dòng họ người Nùng như họ Nông ở Hảo Nghĩa, họ Lô ở Xuân Dương vẫn còn lưu giữ được gia phả nhiều đời của dòng họ như gia phả của họ Lô ghi lại được 14 đời. Các gia phả cổ đều được viết bằng chữ Hán, trong đó ghi rõ họ tên ngày giờ sinh và mất của những người trong dòng họ. So với gia phả của người Kinh thì gia phả của người Nùng ngắn gọn hơn chỉ ghi lại những thông tin cần thiết liên quan đến sự phát triển của dòng họ như: họ tên, ngày tháng năm sinh và mất, họ tên vợ hoặc chồng, số con, họ tên các con. Một số thông tin khác như chức vụ địa vị của người đó trong xã hội không thấy ghi trong gia phả.
- Tư liệu của thày Tào: Đây là mảng tư liệu khá phong phú có cả ở người Tày và người Nùng. Đa phần các tư liệu này đã bị mai một nhưng con cháu một số gia đình trong huyện vẫn còn lưu giữ được. Về mảng tư liệu này có các loại sau:
+ Sách in: Đây là loại sách chủ yếu được mua từ Trung Quốc, nhiều có tới hàng trăm cuốn. Các thầy Tào sử dụng những sách này khi đi hành lễ hoặc xem tử vi, xem địa lý, xem ngày giờ… Về loại sách này thì hòm sách của cụ Tào Nông Văn Kim ở Khuổi A xã Hảo Nghĩa hiện còn để lại khá nhiều. Một số gia đình còn lưu lại những bộ sách quý mang tính chất gia truyền cho con cháu theo đó mà hành nghề.
Trong những tài liệu cổ tìm được ở Na Rì chúng tôi còn thấy có khá nhiều sách chữ Hán và chữ Nôm của người Kinh từ miền xuôi đưa lên không rõ bằng con đường nào. Có thể kể tên một số cuốn trong mảng tư liệu này như: Thạch Sanh tân truyện (chữ Nôm Việt); Phong tình tân truyện (chữ Nôm Việt); Thơ về các công chúa và mẫu (chữ Nôm Việt); Sách Thọ mai gia lễ (chữ Hán); Sách hướng dẫn làm các văn bản hành chính (chữ Hán có dịch nghĩa); Các sách xem phong thuỷ địa lý của miền xuôi (chữ Hán)v.v..
Như vậy có thể thấy rằng mảng văn hoá Nho học ở miền xuôi đã ít nhiều ảnh hưởng đến Na Rì thông qua con đường sách vở và văn tự. Điều đó chứng tỏ rằng các cụ ở đây không chỉ am hiểu chữ Hán mà còn biết cả chữ Nôm của người Việt nữa.
+ Sách chép tay: Đây là loại sách do chính tay các thầy ghi chép hoặc thuê người có chữ đẹp ghi chép lại. Sách gồm các bài cúng cơ bản trong đó có trình tự các bước làm lễ, các bài tế lễ trong đám tang, các cách xem ngày giờ, tuổi lấy vợ lấy chồng, các câu đối.
Chữ Hán được thầy Tào sử dụng nhiều trong quá trình thực hành các nghi thức cúng tế. Chẳng hạn như việc lập bàn thờ cho các gia đình, viết các văn bằng trong lễ cấp sắc cho các thầy Tào, thầy Mo, thầy Then, thầy Pựt. Bàn thờ của các gia đình Tày, Nùng thường ít nhiều có chữ Hán trên đó ghi các câu đối hoặc các mỹ tự làm tăng tính chất tôn nghiêm của ban thờ.
Nhìn chung các cụ xưa viết chữ Hán khá đẹp với đầy đủ 4 cách viết là Chân, Thảo, Triện, Lệ trong đó lối viết Chân khá phổ biến, chữ viết rõ ràng dễ đọc. Qua khảo sát sơ bộ thì gần như ngày trước ở xã nào trong huyện cũng có một vài cụ có khả năng sử dụng được chữ Hán.
2. CHỮ NÔM
Bên cạnh việc sử dụng chữ Hán, người Tày, Nùng ở Na Rì còn sử dụng thêm chữ Nôm để ghi các văn bản tiếng địa phương Tày, Nùng. Tình hình sử dụng chữ Nôm, Tày, Nùng ở Na Rì như sau:
- Chữ Nôm của người Nùng: Phần lớn các chữ Nôm Nùng mà chúng tôi sưu tầm được đều nằm rải rác trong các giấy tờ mang tính chất thủ tục hành chính và các tư liệu gia đình như trong văn khế bán ruộng, trong gia phả, trong các sổ tay ghi chép của các thấy Tào… Các chữ Nôm được sử dụng ở đây phần lớn dùng để ghi lại các tên riêng như tên người và tên làng bản. Các văn bản được ghi chép hoàn toàn bằng chữ Nôm do người Nùng viết hiện thời chưa tìm thấy. Dưới đây là một số chữ Nôm ghi tên các bản ở các xã Xuân Dương, Dương Sơn, Liêm Thuỷ:

Tên bản
Viết bằng chữ Nôm
- Nà Trang (Nà Chang)
(那+田) 江 村 
- Nà Tảng
(那+田) 党 村
- Khuổi Tấy
 @帝 村 
- Thôm San (Thâm San)
深 @ 村 
- Nà Tùng
(那+田) 從 村
- Cốc Càng
(木+谷) 强 村
v.v..

Ngoài ra còn nhiều tên người được ghi bằng chữ Nôm trong gia phả và trong các văn tự hành chính như: bản kê khai nhân khẩu, các văn tự mua bán ruộng. Ví dụ:
Tên người
Viết bằng chữ Nôm
- Lô Đạo Khoay
卢 道 @
- Hứa Thị Cò
許 氏 固
- Nông Thị Bền
农 氏 @
- Chữ Nôm của người Tày: Đây là mảng tư liệu còn được lưu giữ khá nhiều.
Ngoài những chữ Nôm Tày dùng để ghi lại tên người, tên làng bản như người Nùng, người Tày còn sử dụng loại chữ này để chép các văn bản văn học dân gian Tày, các tư liệu dân ca Tày, các bài hát đám cưới… Các tư liệu Nôm Tày sưu tầm được ở Na Rì gồm các thể loại sau:
- Truyện cổ tích và truyện thơ Nôm: Lục pjạ (con côi), Nàng Sláy (nàng Trứng), Truyện Nam Kim Thị Đan, Truyện Quảng Tân, Truyện Trương Hàn, Lương Quân – Bjoóc Lạ, Lưu Đài – Hán Xuân, v.v..
- Các thể loại thơ ca dân gian: Lượn Lạng, Lượn Cọi, Thơ quan làng (nhiều bản), phong plư, các cung then, Phuối pác, phuối rọi, các bài thơ lưu truyền trong dân gian, v.v..
Riêng văn bản thơ quan làng (thơ đám cưới của người Tày) chúng tôi thấy khá phổ biến. Phần lớn được chép rất cẩn thận và đầy đủ các cung đoạn. Có những bản được chép vào những cuốn sổ nhỏ dạng bỏ túi có lẽ để sử dụng khi đi làm đám. Hát quan làng là một tập quán khá phổ biến trong đám cưới của người Tày trước đây nên được văn bản hoá nhiều cũng là điều dễ hiểu.
Các cụ cao tuổi ở Na Rì cho biết sở dĩ người ta chép lại các văn bản trên trước hết là vì đó là những tư liệu quý cần thiết phải lưu giữ, sau nữa còn là vì mục đích để hành nghề. Chẳng hạn như các bài thơ quan làng, các bài hát trong đám làm Then, các bài Lượn… là những thể loại dân ca rất phổ biến trong xã hội người Tày trước đây.
Những người viết được chữ Nôm Tày thường phải là người rất am hiểu và viết thành thạo chữ Hán. Qua sưu tầm chúng tôi thấy những tư liệu các cụ để lại thường là vừa có các tư liệu chép tay bằng chữ Hán vừa có phần tư liệu chép tay bằng chữ Nôm. Cũng giống như viết chữ Hán, các chữ Nôm được các cụ viết khá rõ ràng và dễ đọc theo lối viết chân.
Chữ Nôm Tày – Nùng ở Na Rì có từ khi nào, cho đến nay rất khó xác định. Qua khảo sát các văn bản thì chữ Nôm xuất hiện ở Na Rì rất muộn, thời gian sao lục sớm nhất là cuối thế kỷ 19, muộn nhất là những năm 40, 50 của thế kỷ 20. Việc xuất hiện chữ Nôm Tày ở Na Rì chỉ có thể theo hai cách: các nho sĩ địa phương chép lại từ các sách Nôm mượn được hoặc sách được truyền từ các vùng lân cận như từ các huyện Ngân Sơn, Bạch Thông (Bắc Cạn), Thất Khê, Bình Gia… (Lạng Sơn), hoặc xa hơn có thể từ Ba Bể, Chợ Đồn hoặc một số ít từ Cao Bằng… Những sách hoặc văn bản do các nho sĩ địa phương sao lục sẽ thể hiện rõ qua phương ngữ của tiếng Tày Na Rì, do đặc điểm địa lý, ít giao tiếp về văn hoá, xã hội nên gìn giữ được sự chuẩn mực, ít bị pha tạp biến hoá như các vùng khác, mức độ thuần chuẩn cao hơn. Như vậy nói đến các văn bản chữ Nôm Tày ở Na Rì là nói đến hai loại văn bản: Văn bản ghi âm tiếng Tày Na Rì và văn bản Nôm Tày tìm được ở vùng Na Rì.
Đặc điểm chữ Nôm Tày ở Na Rì cũng giống như chữ Nôm Tày ở các vùng khác, được hình thành theo các phép tắc Giả tá và Hình thanh là chính, phép Hội ý ít gặp. Trong các văn bản Nôm Tày, tỷ lệ chữ viết theo phép Giả tá chiếm từ 50 đến 70%. Có thể phân chia chữ Nôm Tày ở Na Rì thành các loại chữ như sau:
(1) Loại chữ viết theo phép Giả tá vay mượn âm Hán - Việt: ví dụ trong văn bản truyện thơ “Kim Quế” sưu tầm được ở xã Kim Hỷ được chép vào năm 1932, trong 100 chữ ở phần đầu truyện đã có trên 60 chữ theo phép Giả tá. Có những câu cả 7 chữ đều được viết theo cách này như: 国 政 民 四 方 扶 佐.
(Quốc chính dân tứ phương phù tá); có câu 6/7 chữ, như: 天 下 曾 官 民 顺
(Thiên hạ tằng quan quân thuận hòa); có câu dùng 5/7 chữ, như: @ @ 越 王 治 未.
(Tởi cón vua Việt Vương trị vì)…
Loại chữ dùng chữ Hán có âm Hán - Việt giống hoặc gần giống âm tiếng Tày là phương pháp chủ đạo trong chữ Nôm Tày. Có ba trường hợp:
- Trường hợp lấy cả âm cả nghĩa như : 方 東 (Phương Đông), 福 德 (phúc đức) 江 (giang – chang)…
- Trường hợp lấy âm không lấy nghĩa như: 那 (na: dày); 來 (lai: đến – Nôm Tày nghĩa là nhiều); 車 (xa, nghĩa Hán - Việt là xe, tiếng Tày nghĩa là tìm); 左 (tả, nghĩa Hán- Việt là bên trái, tiếng Tày nghĩa là bỏ hoặc sông)…
- Có những chữ âm gần giống, đọc chệch đi đôi chút như: 乙 (ất-ết); @ (phiệ-phít). 乃 (nai-nải), 了 (liễu-lẹo)…
(2) Loại chữ viết theo phương pháp Hình thanh là chữ sáng tạo của chữ Nôm Việt cũng như chữ Nôm Tày – ghép chữ phần âm và chữ Phần nghĩa lại thành một chữ khác.
Ví dụ:
cần 欣 âm 斤 (cân) + nghĩa 人 (nhân) là người
lục @ âm 六 (lục) + nghĩa 子 (tử) là con
tẩu @ âm 四 (tứ) + nghĩa 下 (hạ) là dưới
nưa @ âm 女 (nữ) + nghĩa 上 (thượng) là trên.
v.v..
(3) Loại chữ Nôm đã được phương ngữ hóa (viết theo lối nói và lối phát âm của người Na Rì). Do tính chuẩn hóa của chữ Nôm Tày lỏng lẻo hơn chữ Nôm Kinh nên yếu tố phương ngữ đóng vai trò quan trọng, có thể cùng một chữ mỗi nơi đọc một khác; hoặc thể hiện một âm mỗi người viết một khác; đôi khi còn lệ thuộc vào khả năng, trình độ chữ Hán - Việt của người sao chép hoặc viết. Ví dụ một văn bản Nôm Tày ở Na Rì có chữ (木+果) 福 (mác pục) nghĩa là quả bưởi, người Cao Bằng gọi quả bưởi là mác pàng nên khi đọc chữ này không hiểu được.
Ngoài ra qua mảng tư liệu chữ Nôm Tày còn có thể phần nào hình dung được diện mạo về văn học dân gian và hình thức sinh hoạt dân gian của người Tày Na Rì thuở trước. Đây là những tư liệu quý vì ngoài giá trị phản ánh tri thức bản địa qua hình thức văn tự nó còn mang dấu ấn của địa phương và lịch sử. Chẳng hạn trong truyện thơ Nôm Nam Kim Thị Đan (xuất bản vào khoảng năm 1963) có ghi hai câu thơ:
Hẹn thâng háng nhỉ hả bươn slam
Cỏi pây háng sắc pan chập nả
Nghĩa là:
Hẹn đến chợ hai nhăm tháng ba
Sẽ đi chợ một lần gặp mặt
Có người cho rằng chợ 25 tháng 3 (háng nhỉ hả bươn slam) là chợ truyền thống ở xã Xuân Dương của huyện Na Rì, vì vậy rất có thể truyện Nam Kim Thị Đan có xuất xứ từ vùng Na Rì. Về vấn đề này chúng tôi chưa có điều kiện kiểm chứng. Nhưng nếu thực sự đúng như vậy thì có thể căn cứ vào thời gian ra đời hội chợ Xuân Dương để đoán định được thời gian xuất hiện truyện thơ Nôm này. Hoặc chí ít nếu giả sử truyện thơ này được người Na Rì dị bản hóa thêm 2 câu thơ trên vào thì ta cũng có thể đoán định được thời điểm đó xuất hiện ở Na Rì một cách tương đối. Hội chợ Xuân Dương được ra đời vào năm 1911, vậy truyện Nam Kim Thị Đan phải xuất hiện ở Na Rì sau thời gian này.
Ngoài ra còn phải kể tới nguồn tư liệu Hán Nôm của người Dao, một dân tộc đông thứ ba sau dân tộc Nùng ở Na Rì. Về văn tự, người Dao không có chữ viết riêng nên cũng giống như người Tày, Nùng – trong truyền thống họ sử dụng chữ Hán để ghi chép các tư liệu gia đình, ghi chép các bài văn cúng và làm các thủ tục hành chính như viết các giao kèo, biên nhận… Qua khảo sát trên các tư liệu sưu tầm được ở Na Rì thì về mặt hình thức họ vay mượn chữ Hán, trong khi sử dụng có những từ liên quan đến tên riêng như tên người, tên đất và tên một số đồ vật mà trong chữ Hán không có từ tương tự thì họ sẽ sáng tạo ra các chữ mới để thay thế. Loại chữ này được sáng tạo trên cơ sở chữ Hán giống như cách ghép chữ Nôm Tày và chữ Nôm Nùng. Nhìn chung qua các văn bản tìm được, số lượng các chữ này không nhiều, trong một văn bản có thể xuất hiện đôi ba chữ. Vì vậy những người am hiểu chữ Hán có thể đọc được nội dung các văn bản viết theo lỗi văn tự này. Tuy nhiên về mặt phát âm – cách đọc của họ không giống như cách phát âm Hán Việt của người Kinh mà được phát âm bằng tiếng Dao hoặc tiếng Quan Hoả. Loại chữ này được người địa phương gọi chung là chữ Nôm Dao.
Trước đây trong mỗi bản người Dao cũng có một vài người biết chữ, thường họ theo học một thời gian tiếng Quan hỏa ở bên Lạng Sơn, sau đó tự học thêm. Có những người viết chữ rất đẹp và kiêm luôn cả nghề thầy cúng. Số người biết chữ Hán như vậy hiện nay chỉ còn rất ít. Văn tự bằng chữ Hán của người Dao gồm có các loại chính sau:
- Loại ghi chép trong gia đình: Người Dao ở đây thường dùng chữ Hán để viết gia phả, ghi chép các vấn đề liên quan đến các công việc gia đình như việc di cư, nơi đặt mồ mả… Chẳng hạn tại nhà ông Bàn Hữu Vượng ở Cam Lạc xã Liêm Thuỷ hiện vẫn còn giữ một tài liệu mỏng đề ngoài bìa là Nam vị gia tiên táng là tài liệu ghi nơi để mộ của nam giới trong dòng họ Bàn. Một đoạn trong đó có ghi tên các địa điểm như sau: Quảng Tây tỉnh, Tức Châu phủ, Bình Lương huyện; Tràng Đình phủ, Văn Uyên châu, Hoá Nhân tổng Hoá Nhân, Khuổi Bá trung; Thông Hoá phủ, Phú Bình phủ; v.v.. Qua đây có thể thấy rằng tổ tiên của dòng họ Bàn có gôc gác từu tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
- Sách của thầy cúng: Đây là mảng sách khá phong phú chiếm đa phần trong các loại sách của người Dao. Sách này chủ yếu tập trung ở các gia đình có nghề làm thầy cúng. Phần lớn đó là các tư liệu chép tay do cha ông họ truyền lại hoặc tự bản thân những người biết chữ Hán ghi chép. Trong đó chủ yếu là sách địa lý, thuật số.
- Văn tự có liên quan đến thủ tục hành chính: Trước đây người Dao cũng có ý thức sử dụng văn tự như là một công cụ để làm bằng cứ trong quan hệ xã hội, mua bán thoả thuận. Đó là các loại giấy biên nhận, giấy cam đoan và giấy thoả thuận. Cách lập loại văn tự này cũng theo những quy tắc nhất định. Người muốn lập giấy phải nhờ một người biết chữ trong bản viết hộ trước sự có mặt của các đương sự liên quan. Viết xong phải có người chứng kiến, nếu là vấn đề quan trọng thì phải nhờ đến những người có chức trách như là Động trưởng làm chứng hộ, Sau phần nội dung được các bên nhất trí có chữ ký của những người làm chứng và điểm chỉ của các đương sự.
Trong loại văn tự còn lại này, các giấy tờ liên quan đến việc cưới hỏi là khá phổ biến. Nội dung của loại văn tự này đại ý như sau: ông A có con gái lớn được anh B đến hỏi làm vợ. Họ hàng trên dưới xem xét nhất trí thoả thuận đúng ngày này, tháng này anh B phải mang đủ sổ lễ vật (gồm tiền là 100 đồng, lợn là 50 cân chẳng hạn) đến nộp cho gia đìnhthì mới được nhận vợ. Nếu sai hẹn và không đủ lễ vật theo yêu cầu thì sẽ không được nhận vợ nữa… Văn tự được lập để làm bằng, nếu bên nào thay lòng đổi dạ thì sẽ trình quan xét xử…
Ngoài ra chữ Hán cũng được dùng để viết câu đối hoặc các bài vị trên ban thờ và để chép những bài hát đối đáp pả dung.
Nhìn chung chữ Hán của người Dao được viết theo thể chữ Chân cẩn thận. Do trước đây các cụ tự học là chính nên chữ viết ở nhiều văn bản không tránh khỏi những sai sót như viết sai, viết thiếu nét, viết ngược chữ…
Nhìn chung các thư tịch cổ ở Na Rì khá phong phú, qua đó thể hiện được một phần những giá trị văn hoá truyền thống một thời của các dân tộc Tày, Nùng, Dao ở Na Rì. Đáng tiếc là phần tư liuệ này đã bị mai một khá nhiều qua thời gian. Những gì chung tôi hiện khai thác được là rất ít ỏi so với những cái vốn có. Những tư liệu còn lại phần lớn đã cũ nát do bảo quản không tốt, chữ đọc mờ, giấy nát. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình trạng trên là do chủ nhân hiện nay của những tư liệu này phần lớn không biết đọc và cũng không biết đó là sách gì, có giữ cũng chỉ để làm kỷ niệm. Trong thực tế, số người đọc thông viết thạo các văn tự nói trên ở Việt Bắc hiện còn chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Trên đây chỉ là một dẫn chứng tiêu biểu về hiện trạng lưu giữ các văn bản Hán Nôm ở một huyện vùng cao Việt Bắc. Theo chúng tôi được biết thì ở các địa phương khác thuộc Cao Bằng, Lạng Sơn… việc tồn tại và lưu giữ vốn văn tự này cũng đã và đang ở trong tình trạng tương tự. Đáng tiếc là cho đến nay chưa có một tổ chức nào đứng ra sưu tầm hoặc có kế hoạch khai thác để lưu giữ và sưửdụng. Do vậy, hiện nay rất cấp thiết có những tổ chức có chức năng, có điều kiện và có hiểu biết tiến hành càng sớm càng tốt các cuộc điền dã, sưu tầm để kiểm kê và có biện pháp lưu giữ, bảo tồn. Nếu không tiến hành nhanh chóng kịp thời thì chỉ vài chục năm nữa việc tìm hiểu, nghiên cứu nguồn tư liệu này sẽ rất khó khăn. Và chúng tôi nghĩ rằng, đây cũng là một vấn đề và Viện Nghiên cứu Hán Nôm cần quan tâm trong thời gian tới.
Chú thích:
1. Choóng giống như cái thạp đan bằng trúc, hình chữ nhật, kích thước khoảng 1m x 0,5m x 0,6m dùng đựng sách vở, quần áo, đồ đạc quý…
Thông báo Hán Nôm học 2000, tr.588-601

0 nhận xét:

Đăng nhận xét