HIỆN TRẠNG VĂN BẢN HÁN NÔM Ở HUYỆN NA RÌ TỈNH BẮC CẠN
HIỆN TRẠNG VĂN BẢN HÁN NÔM Ở
HUYỆN NA RÌ TỈNH BẮC CẠN
HUYỆN NA RÌ TỈNH BẮC CẠN
NGUYỄN THỊ YÊN
Viện Nghiên cứu Văn hoá dân gian
Na
Rì là một huyện miền núi thuộc vùng sâu, vùng xa của tỉnh Bắc Cạn, nơi
có ba dân tộc cư trú chính là Tày, Nùng và Dao. Một trong những vốn văn
hoá cổ mà đồng bào ở đây còn lưu giữ được là nguồn tư liệu văn tự Hán
Nôm. Trong thời gian đi điền dã ở Nam Rì vào các năm 1998 và 1999, chúng
tôi đã có may mắn được tiếp xúc với các nguồn tư liệu này.
Trước
đây, cả 3 dân tộc Tày, Nùng, Dao ở Na Rì đều sử dụng hai loại văn tự
chính để viết là chữ Hán và chữ Nôm. Do điều kiện giao thông đi lại khó
khăn nên số người biết chữ ở đây không nhiều. Để học được chữ người ta
phải sang tận bên Lạng Sơn mới có thầy dạy, sau đó tự học là chính. Các
bảo quản và lưu giữ sách trong các gia đình không giống nhau. Có gia
đình nhét sách vào trong ống bương nút kín hoặc dùng vuông vải cuộn tròn
buộc trong tay nải treo cao nơi góc bàn thờ, hoặc cất ở đáy hòm, đáy
tủ… Có nhà nhiều sách thì đựng vào choóng(1).
Các choóng sách thường tập trung nhiều loại sách khác nhau: Sách Hán -
Việt, sách Nôm Tày, sách Nôm Dao… Nội dung đa dạng: Sách học chữ nho Tam tự kinh, Tứ thư – ngũ kinh,
sách ghi chép gia phả, điền sản, sách để hành nghề Tào chiếm tỷ lệ 50 –
60%; sách bói toán, xem chân gà, vân tay, nốt ruồi… sách xem ngày giờ
hoàng đạo làm nhà sửa cửa, cưới xin, ghi chép các bài thuốc chữa bệnh
theo gia truyền và dân gian…, sách ghi chép văn học dân gian bằng chữ
Nôm Tày…
Chủ
nhân xa xưa của các kho sách nói trên thường là con cháu của những
người mà từ đời kỵ, đời cụ, phó lý, thầy đồ, giáo học. Cũng có trường
hợp do tư chất thông minh học lỏm và tự học mà biết đọc, biết viết nên
gặp gì, thích gì thì ghi chép lại như trường hợp ông Nguyễn Duy Vi ở xã
Kim Hỷ, mất năm 1972, thọ khoảng 70 tuổi.
Dưới đây là tình hình sử dụng chữ Hán Nôm của hai dân tộc Tày và Nùng ở Na Rì:
1. CHỮ HÁN:
Cấu
tạo chữ và cách sử dụng giống như ở miền xuôi. Qua khảo sát sơ bộ, các
tư liệu liên quan đến việc sử dụng chữ Hán của người Tày, Nùng ở Na Rì
gồm:
- Tư liệu hành chính:
Giống như ở miền xuôi chữ Hán là văn tự chính để người ta sử dụng viết
các văn bản mang tính chất thủ tục hành chính từ cấp xã trở lên. Đó là
những thứ giấy tờ có liên quan đến công việc làng xã do các chức sắc
trong làng bản như là chánh tổng, lý trưởng thực hiện. Qua giấy tờ gia
đình của ông Nông Văn Bằng do con cháu hiện ở xóm Pò Lỳ, xã Xuân Dương
còn lưu giữ thì các văn bản được viết vào thời kỳ đầu thế kỷ này gồm:
Bản kê khai nhân khẩu trong xã, các bản cam kết công việc làng xã như
bản cam kết tuần phòng, trị an giữa các xã trong tổng Côn Minh, giấy nộp
thuế vụ mùa các năm từ 1915, 1916 đến 1932, bản kê khai ruộng đất của
gia đình, khế ước bán ruộng của các cá nhân có xác nhận của chính quyền
xã… Trong đó một số văn bản đã có mẫu sẵn người viết chỉ việc điền nội
dung vào như các phiếu thu thuế, giấy khai giá thú…
Ngoài
ra còn có các tư liệu mang tính chất gia đình như thư từ trao đổi giữa
cá nhân, giấy tờ liên quan đến việc mua bán ruộng đất của gia đình, gia
phả của dòng họ. Các văn khế bán ruộng đất là giấy viết tay nhờ người
biết chữ trong bản viết hộ có nội dung khác nhau được trình bày ngắn
gọn, đủ ý. Một văn khế bán ruộng (sưu tầm ở xã Xuân Dương) có nội dung
đại ý như sau: Ông N, vì thiếu tiền tiêu nên lấy thửa ruộng của gia đình
đông giáp, tây giáp… bán cho ông M. cùng xóm với giá trung bình, nay
làm văn bằng để phòng khi có sự. Những người lập văn khế gồm: Chủ ruộng
điểm chỉ, người mua ký, người viết giấy ký, lý trưởng bản xã ký xác
nhận.
Trong
các gia đình có người biết chữ thường có lập gia phả của dòng họ. Đến
nay, một số dòng họ người Nùng như họ Nông ở Hảo Nghĩa, họ Lô ở Xuân
Dương vẫn còn lưu giữ được gia phả nhiều đời của dòng họ như gia phả của
họ Lô ghi lại được 14 đời. Các gia phả cổ đều được viết bằng chữ Hán,
trong đó ghi rõ họ tên ngày giờ sinh và mất của những người trong dòng
họ. So với gia phả của người Kinh thì gia phả của người Nùng ngắn gọn
hơn chỉ ghi lại những thông tin cần thiết liên quan đến sự phát triển
của dòng họ như: họ tên, ngày tháng năm sinh và mất, họ tên vợ hoặc
chồng, số con, họ tên các con. Một số thông tin khác như chức vụ địa vị
của người đó trong xã hội không thấy ghi trong gia phả.
- Tư liệu của thày Tào:
Đây là mảng tư liệu khá phong phú có cả ở người Tày và người Nùng. Đa
phần các tư liệu này đã bị mai một nhưng con cháu một số gia đình trong
huyện vẫn còn lưu giữ được. Về mảng tư liệu này có các loại sau:
+ Sách in:
Đây là loại sách chủ yếu được mua từ Trung Quốc, nhiều có tới hàng trăm
cuốn. Các thầy Tào sử dụng những sách này khi đi hành lễ hoặc xem tử
vi, xem địa lý, xem ngày giờ… Về loại sách này thì hòm sách của cụ Tào
Nông Văn Kim ở Khuổi A xã Hảo Nghĩa hiện còn để lại khá nhiều. Một số
gia đình còn lưu lại những bộ sách quý mang tính chất gia truyền cho con
cháu theo đó mà hành nghề.
Trong
những tài liệu cổ tìm được ở Na Rì chúng tôi còn thấy có khá nhiều sách
chữ Hán và chữ Nôm của người Kinh từ miền xuôi đưa lên không rõ bằng
con đường nào. Có thể kể tên một số cuốn trong mảng tư liệu này như: Thạch Sanh tân truyện (chữ Nôm Việt); Phong tình tân truyện (chữ Nôm Việt); Thơ về các công chúa và mẫu (chữ Nôm Việt); Sách Thọ mai gia lễ
(chữ Hán); Sách hướng dẫn làm các văn bản hành chính (chữ Hán có dịch
nghĩa); Các sách xem phong thuỷ địa lý của miền xuôi (chữ Hán)v.v..
Như
vậy có thể thấy rằng mảng văn hoá Nho học ở miền xuôi đã ít nhiều ảnh
hưởng đến Na Rì thông qua con đường sách vở và văn tự. Điều đó chứng tỏ
rằng các cụ ở đây không chỉ am hiểu chữ Hán mà còn biết cả chữ Nôm của
người Việt nữa.
+ Sách chép tay:
Đây là loại sách do chính tay các thầy ghi chép hoặc thuê người có chữ
đẹp ghi chép lại. Sách gồm các bài cúng cơ bản trong đó có trình tự các
bước làm lễ, các bài tế lễ trong đám tang, các cách xem ngày giờ, tuổi
lấy vợ lấy chồng, các câu đối.
Chữ
Hán được thầy Tào sử dụng nhiều trong quá trình thực hành các nghi thức
cúng tế. Chẳng hạn như việc lập bàn thờ cho các gia đình, viết các văn
bằng trong lễ cấp sắc cho các thầy Tào, thầy Mo, thầy Then, thầy Pựt.
Bàn thờ của các gia đình Tày, Nùng thường ít nhiều có chữ Hán trên đó
ghi các câu đối hoặc các mỹ tự làm tăng tính chất tôn nghiêm của ban
thờ.
Nhìn
chung các cụ xưa viết chữ Hán khá đẹp với đầy đủ 4 cách viết là Chân,
Thảo, Triện, Lệ trong đó lối viết Chân khá phổ biến, chữ viết rõ ràng dễ
đọc. Qua khảo sát sơ bộ thì gần như ngày trước ở xã nào trong huyện
cũng có một vài cụ có khả năng sử dụng được chữ Hán.
2. CHỮ NÔM
Bên
cạnh việc sử dụng chữ Hán, người Tày, Nùng ở Na Rì còn sử dụng thêm chữ
Nôm để ghi các văn bản tiếng địa phương Tày, Nùng. Tình hình sử dụng
chữ Nôm, Tày, Nùng ở Na Rì như sau:
- Chữ Nôm của người Nùng:
Phần lớn các chữ Nôm Nùng mà chúng tôi sưu tầm được đều nằm rải rác
trong các giấy tờ mang tính chất thủ tục hành chính và các tư liệu gia
đình như trong văn khế bán ruộng, trong gia phả, trong các sổ tay ghi
chép của các thấy Tào… Các chữ Nôm được sử dụng ở đây phần lớn dùng để
ghi lại các tên riêng như tên người và tên làng bản. Các văn bản được
ghi chép hoàn toàn bằng chữ Nôm do người Nùng viết hiện thời chưa tìm
thấy. Dưới đây là một số chữ Nôm ghi tên các bản ở các xã Xuân Dương,
Dương Sơn, Liêm Thuỷ:
Tên bản
|
Viết bằng chữ Nôm
|
- Nà Trang (Nà Chang)
|
(那+田) 江 村
|
- Nà Tảng
|
(那+田) 党 村
|
- Khuổi Tấy
|
@帝 村
|
- Thôm San (Thâm San)
|
深 @ 村
|
- Nà Tùng
|
(那+田) 從 村
|
- Cốc Càng
|
(木+谷) 强 村
|
v.v..
|
Ngoài
ra còn nhiều tên người được ghi bằng chữ Nôm trong gia phả và trong các
văn tự hành chính như: bản kê khai nhân khẩu, các văn tự mua bán ruộng.
Ví dụ:
Tên người
|
Viết bằng chữ Nôm
|
- Lô Đạo Khoay
|
卢 道 @
|
- Hứa Thị Cò
|
許 氏 固
|
- Nông Thị Bền
|
农 氏 @
|
- Chữ Nôm của người Tày: Đây là mảng tư liệu còn được lưu giữ khá nhiều.
Ngoài
những chữ Nôm Tày dùng để ghi lại tên người, tên làng bản như người
Nùng, người Tày còn sử dụng loại chữ này để chép các văn bản văn học dân
gian Tày, các tư liệu dân ca Tày, các bài hát đám cưới… Các tư liệu Nôm
Tày sưu tầm được ở Na Rì gồm các thể loại sau:
- Truyện cổ tích và truyện thơ Nôm: Lục pjạ (con côi), Nàng Sláy (nàng Trứng), Truyện Nam Kim Thị Đan, Truyện Quảng Tân, Truyện Trương Hàn, Lương Quân – Bjoóc Lạ, Lưu Đài – Hán Xuân, v.v..
- Các thể loại thơ ca dân gian: Lượn Lạng, Lượn Cọi, Thơ quan làng (nhiều bản), phong plư, các cung then, Phuối pác, phuối rọi, các bài thơ lưu truyền trong dân gian, v.v..
Riêng
văn bản thơ quan làng (thơ đám cưới của người Tày) chúng tôi thấy khá
phổ biến. Phần lớn được chép rất cẩn thận và đầy đủ các cung đoạn. Có
những bản được chép vào những cuốn sổ nhỏ dạng bỏ túi có lẽ để sử dụng
khi đi làm đám. Hát quan làng là một tập quán khá phổ biến trong đám
cưới của người Tày trước đây nên được văn bản hoá nhiều cũng là điều dễ
hiểu.
Các
cụ cao tuổi ở Na Rì cho biết sở dĩ người ta chép lại các văn bản trên
trước hết là vì đó là những tư liệu quý cần thiết phải lưu giữ, sau nữa
còn là vì mục đích để hành nghề. Chẳng hạn như các bài thơ quan làng,
các bài hát trong đám làm Then, các bài Lượn… là những thể loại dân ca
rất phổ biến trong xã hội người Tày trước đây.
Những
người viết được chữ Nôm Tày thường phải là người rất am hiểu và viết
thành thạo chữ Hán. Qua sưu tầm chúng tôi thấy những tư liệu các cụ để
lại thường là vừa có các tư liệu chép tay bằng chữ Hán vừa có phần tư
liệu chép tay bằng chữ Nôm. Cũng giống như viết chữ Hán, các chữ Nôm
được các cụ viết khá rõ ràng và dễ đọc theo lối viết chân.
Chữ
Nôm Tày – Nùng ở Na Rì có từ khi nào, cho đến nay rất khó xác định. Qua
khảo sát các văn bản thì chữ Nôm xuất hiện ở Na Rì rất muộn, thời gian
sao lục sớm nhất là cuối thế kỷ 19, muộn nhất là những năm 40, 50 của
thế kỷ 20. Việc xuất hiện chữ Nôm Tày ở Na Rì chỉ có thể theo hai cách:
các nho sĩ địa phương chép lại từ các sách Nôm mượn được hoặc sách được
truyền từ các vùng lân cận như từ các huyện Ngân Sơn, Bạch Thông (Bắc
Cạn), Thất Khê, Bình Gia… (Lạng Sơn), hoặc xa hơn có thể từ Ba Bể, Chợ
Đồn hoặc một số ít từ Cao Bằng… Những sách hoặc văn bản do các nho sĩ
địa phương sao lục sẽ thể hiện rõ qua phương ngữ của tiếng Tày Na Rì, do
đặc điểm địa lý, ít giao tiếp về văn hoá, xã hội nên gìn giữ được sự
chuẩn mực, ít bị pha tạp biến hoá như các vùng khác, mức độ thuần chuẩn
cao hơn. Như vậy nói đến các văn bản chữ Nôm Tày ở Na Rì là nói đến hai
loại văn bản: Văn bản ghi âm tiếng Tày Na Rì và văn bản Nôm Tày tìm được
ở vùng Na Rì.
Đặc
điểm chữ Nôm Tày ở Na Rì cũng giống như chữ Nôm Tày ở các vùng khác,
được hình thành theo các phép tắc Giả tá và Hình thanh là chính, phép
Hội ý ít gặp. Trong các văn bản Nôm Tày, tỷ lệ chữ viết theo phép Giả tá
chiếm từ 50 đến 70%. Có thể phân chia chữ Nôm Tày ở Na Rì thành các
loại chữ như sau:
(1)
Loại chữ viết theo phép Giả tá vay mượn âm Hán - Việt: ví dụ trong văn
bản truyện thơ “Kim Quế” sưu tầm được ở xã Kim Hỷ được chép vào năm
1932, trong 100 chữ ở phần đầu truyện đã có trên 60 chữ theo phép Giả
tá. Có những câu cả 7 chữ đều được viết theo cách này như: 国 政 民 四 方 扶
佐.
(Quốc chính dân tứ phương phù tá); có câu 6/7 chữ, như: 天 下 曾 官 民 顺
(Thiên hạ tằng quan quân thuận hòa); có câu dùng 5/7 chữ, như: @ @ 越 王 治 未.
(Tởi cón vua Việt Vương trị vì)…
Loại
chữ dùng chữ Hán có âm Hán - Việt giống hoặc gần giống âm tiếng Tày là
phương pháp chủ đạo trong chữ Nôm Tày. Có ba trường hợp:
- Trường hợp lấy cả âm cả nghĩa như : 方 東 (Phương Đông), 福 德 (phúc đức) 江 (giang – chang)…
-
Trường hợp lấy âm không lấy nghĩa như: 那 (na: dày); 來 (lai: đến – Nôm
Tày nghĩa là nhiều); 車 (xa, nghĩa Hán - Việt là xe, tiếng Tày nghĩa là
tìm); 左 (tả, nghĩa Hán- Việt là bên trái, tiếng Tày nghĩa là bỏ hoặc
sông)…
- Có những chữ âm gần giống, đọc chệch đi đôi chút như: 乙 (ất-ết); @ (phiệ-phít). 乃 (nai-nải), 了 (liễu-lẹo)…
(2)
Loại chữ viết theo phương pháp Hình thanh là chữ sáng tạo của chữ Nôm
Việt cũng như chữ Nôm Tày – ghép chữ phần âm và chữ Phần nghĩa lại thành
một chữ khác.
Ví dụ:
cần 欣 âm 斤 (cân) + nghĩa 人 (nhân) là người
lục @ âm 六 (lục) + nghĩa 子 (tử) là con
tẩu @ âm 四 (tứ) + nghĩa 下 (hạ) là dưới
nưa @ âm 女 (nữ) + nghĩa 上 (thượng) là trên.
v.v..
(3)
Loại chữ Nôm đã được phương ngữ hóa (viết theo lối nói và lối phát âm
của người Na Rì). Do tính chuẩn hóa của chữ Nôm Tày lỏng lẻo hơn chữ Nôm
Kinh nên yếu tố phương ngữ đóng vai trò quan trọng, có thể cùng một chữ
mỗi nơi đọc một khác; hoặc thể hiện một âm mỗi người viết một khác; đôi
khi còn lệ thuộc vào khả năng, trình độ chữ Hán - Việt của người sao
chép hoặc viết. Ví dụ một văn bản Nôm Tày ở Na Rì có chữ (木+果) 福 (mác pục) nghĩa là quả bưởi, người Cao Bằng gọi quả bưởi là mác pàng nên khi đọc chữ này không hiểu được.
Ngoài
ra qua mảng tư liệu chữ Nôm Tày còn có thể phần nào hình dung được diện
mạo về văn học dân gian và hình thức sinh hoạt dân gian của người Tày
Na Rì thuở trước. Đây là những tư liệu quý vì ngoài giá trị phản ánh tri
thức bản địa qua hình thức văn tự nó còn mang dấu ấn của địa phương và
lịch sử. Chẳng hạn trong truyện thơ Nôm Nam Kim Thị Đan (xuất bản vào khoảng năm 1963) có ghi hai câu thơ:
Hẹn thâng háng nhỉ hả bươn slam
Cỏi pây háng sắc pan chập nả
Nghĩa là:
Hẹn đến chợ hai nhăm tháng ba
Sẽ đi chợ một lần gặp mặt
Có người cho rằng chợ 25 tháng 3 (háng nhỉ hả bươn slam) là chợ truyền thống ở xã Xuân Dương của huyện Na Rì, vì vậy rất có thể truyện Nam Kim Thị Đan
có xuất xứ từ vùng Na Rì. Về vấn đề này chúng tôi chưa có điều kiện
kiểm chứng. Nhưng nếu thực sự đúng như vậy thì có thể căn cứ vào thời
gian ra đời hội chợ Xuân Dương để đoán định được thời gian xuất hiện
truyện thơ Nôm này. Hoặc chí ít nếu giả sử truyện thơ này được người Na
Rì dị bản hóa thêm 2 câu thơ trên vào thì ta cũng có thể đoán định được
thời điểm đó xuất hiện ở Na Rì một cách tương đối. Hội chợ Xuân Dương
được ra đời vào năm 1911, vậy truyện Nam Kim Thị Đan phải xuất hiện ở Na Rì sau thời gian này.
Ngoài
ra còn phải kể tới nguồn tư liệu Hán Nôm của người Dao, một dân tộc
đông thứ ba sau dân tộc Nùng ở Na Rì. Về văn tự, người Dao không có chữ
viết riêng nên cũng giống như người Tày, Nùng – trong truyền thống họ sử
dụng chữ Hán để ghi chép các tư liệu gia đình, ghi chép các bài văn
cúng và làm các thủ tục hành chính như viết các giao kèo, biên nhận… Qua
khảo sát trên các tư liệu sưu tầm được ở Na Rì thì về mặt hình thức họ
vay mượn chữ Hán, trong khi sử dụng có những từ liên quan đến tên riêng
như tên người, tên đất và tên một số đồ vật mà trong chữ Hán không có từ
tương tự thì họ sẽ sáng tạo ra các chữ mới để thay thế. Loại chữ này
được sáng tạo trên cơ sở chữ Hán giống như cách ghép chữ Nôm Tày và chữ
Nôm Nùng. Nhìn chung qua các văn bản tìm được, số lượng các chữ này
không nhiều, trong một văn bản có thể xuất hiện đôi ba chữ. Vì vậy những
người am hiểu chữ Hán có thể đọc được nội dung các văn bản viết theo
lỗi văn tự này. Tuy nhiên về mặt phát âm – cách đọc của họ không giống
như cách phát âm Hán Việt của người Kinh mà được phát âm bằng tiếng Dao
hoặc tiếng Quan Hoả. Loại chữ này được người địa phương gọi chung là chữ
Nôm Dao.
Trước
đây trong mỗi bản người Dao cũng có một vài người biết chữ, thường họ
theo học một thời gian tiếng Quan hỏa ở bên Lạng Sơn, sau đó tự học
thêm. Có những người viết chữ rất đẹp và kiêm luôn cả nghề thầy cúng. Số
người biết chữ Hán như vậy hiện nay chỉ còn rất ít. Văn tự bằng chữ Hán
của người Dao gồm có các loại chính sau:
-
Loại ghi chép trong gia đình: Người Dao ở đây thường dùng chữ Hán để
viết gia phả, ghi chép các vấn đề liên quan đến các công việc gia đình
như việc di cư, nơi đặt mồ mả… Chẳng hạn tại nhà ông Bàn Hữu Vượng ở Cam
Lạc xã Liêm Thuỷ hiện vẫn còn giữ một tài liệu mỏng đề ngoài bìa là Nam vị gia tiên táng là tài liệu ghi nơi để mộ của nam giới trong dòng họ Bàn. Một đoạn trong đó có ghi tên các địa điểm như sau: Quảng
Tây tỉnh, Tức Châu phủ, Bình Lương huyện; Tràng Đình phủ, Văn Uyên
châu, Hoá Nhân tổng Hoá Nhân, Khuổi Bá trung; Thông Hoá phủ, Phú Bình
phủ; v.v.. Qua đây có thể thấy rằng tổ tiên của dòng họ Bàn có gôc gác từu tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
- Sách của thầy cúng:
Đây là mảng sách khá phong phú chiếm đa phần trong các loại sách của
người Dao. Sách này chủ yếu tập trung ở các gia đình có nghề làm thầy
cúng. Phần lớn đó là các tư liệu chép tay do cha ông họ truyền lại hoặc
tự bản thân những người biết chữ Hán ghi chép. Trong đó chủ yếu là sách
địa lý, thuật số.
- Văn tự có liên quan đến thủ tục hành chính:
Trước đây người Dao cũng có ý thức sử dụng văn tự như là một công cụ để
làm bằng cứ trong quan hệ xã hội, mua bán thoả thuận. Đó là các loại
giấy biên nhận, giấy cam đoan và giấy thoả thuận. Cách lập loại văn tự
này cũng theo những quy tắc nhất định. Người muốn lập giấy phải nhờ một
người biết chữ trong bản viết hộ trước sự có mặt của các đương sự liên
quan. Viết xong phải có người chứng kiến, nếu là vấn đề quan trọng thì
phải nhờ đến những người có chức trách như là Động trưởng làm chứng hộ,
Sau phần nội dung được các bên nhất trí có chữ ký của những người làm
chứng và điểm chỉ của các đương sự.
Trong
loại văn tự còn lại này, các giấy tờ liên quan đến việc cưới hỏi là khá
phổ biến. Nội dung của loại văn tự này đại ý như sau: ông A có con gái
lớn được anh B đến hỏi làm vợ. Họ hàng trên dưới xem xét nhất trí thoả
thuận đúng ngày này, tháng này anh B phải mang đủ sổ lễ vật (gồm tiền là
100 đồng, lợn là 50 cân chẳng hạn) đến nộp cho gia đìnhthì mới được
nhận vợ. Nếu sai hẹn và không đủ lễ vật theo yêu cầu thì sẽ không được
nhận vợ nữa… Văn tự được lập để làm bằng, nếu bên nào thay lòng đổi dạ
thì sẽ trình quan xét xử…
Ngoài ra chữ Hán cũng được dùng để viết câu đối hoặc các bài vị trên ban thờ và để chép những bài hát đối đáp pả dung.
Nhìn
chung chữ Hán của người Dao được viết theo thể chữ Chân cẩn thận. Do
trước đây các cụ tự học là chính nên chữ viết ở nhiều văn bản không
tránh khỏi những sai sót như viết sai, viết thiếu nét, viết ngược chữ…
Nhìn
chung các thư tịch cổ ở Na Rì khá phong phú, qua đó thể hiện được một
phần những giá trị văn hoá truyền thống một thời của các dân tộc Tày,
Nùng, Dao ở Na Rì. Đáng tiếc là phần tư liuệ này đã bị mai một khá nhiều
qua thời gian. Những gì chung tôi hiện khai thác được là rất ít ỏi so
với những cái vốn có. Những tư liệu còn lại phần lớn đã cũ nát do bảo
quản không tốt, chữ đọc mờ, giấy nát. Một trong những nguyên nhân cơ bản
dẫn tới tình trạng trên là do chủ nhân hiện nay của những tư liệu này
phần lớn không biết đọc và cũng không biết đó là sách gì, có giữ cũng
chỉ để làm kỷ niệm. Trong thực tế, số người đọc thông viết thạo các văn
tự nói trên ở Việt Bắc hiện còn chỉ đếm được trên đầu ngón tay.
Trên
đây chỉ là một dẫn chứng tiêu biểu về hiện trạng lưu giữ các văn bản
Hán Nôm ở một huyện vùng cao Việt Bắc. Theo chúng tôi được biết thì ở
các địa phương khác thuộc Cao Bằng, Lạng Sơn… việc tồn tại và lưu giữ
vốn văn tự này cũng đã và đang ở trong tình trạng tương tự. Đáng tiếc là
cho đến nay chưa có một tổ chức nào đứng ra sưu tầm hoặc có kế hoạch
khai thác để lưu giữ và sưửdụng. Do vậy, hiện nay rất cấp thiết có những
tổ chức có chức năng, có điều kiện và có hiểu biết tiến hành càng sớm
càng tốt các cuộc điền dã, sưu tầm để kiểm kê và có biện pháp lưu giữ,
bảo tồn. Nếu không tiến hành nhanh chóng kịp thời thì chỉ vài chục năm
nữa việc tìm hiểu, nghiên cứu nguồn tư liệu này sẽ rất khó khăn. Và
chúng tôi nghĩ rằng, đây cũng là một vấn đề và Viện Nghiên cứu Hán Nôm
cần quan tâm trong thời gian tới.
Chú thích:
1.
Choóng giống như cái thạp đan bằng trúc, hình chữ nhật, kích thước
khoảng 1m x 0,5m x 0,6m dùng đựng sách vở, quần áo, đồ đạc quý…
Thông báo Hán Nôm học 2000, tr.588-601
0 nhận xét:
Đăng nhận xét