VÀI ĐẶC ĐIỂM CỦA TỤC NGỮ DÂN TỘC TÀY QUA VĂN BẢN NÔM
VÀI ĐẶC ĐIỂM CỦA TỤC NGỮ DÂN TỘC TÀY QUA VĂN BẢN NÔM
Cung Khắc Lược
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Trong
di sản ngữ văn học truyền thống của dân tộc Tày ở 6 tỉnh Cao - Bắc -
Lạng - Hà - Tuyên - Thái thuộc khu Việt Bắc cũ, mảng Tục ngữ rất phong
phú, có nội dung tư tưởng tốt và nghệ thuật cao, từng được sàng lọc qua
nhiều thế hệ, không những được lưu truyền trong dân gian mà còn được một
số nho sĩ có tinh thần dân tộc ghi chép lại truyền tải đến ngày nay cho
con cháu. Mảng này rất quý cho việc tìm hiểu tri thức thực tiễn của
người Tày Việt Nam
về mọi mặt của cuộc sống vật chất và tinh thần mà họ đã dày công đúc
kết suốt mấy nghìn năm phát triển lịch sử của dân tộc mình.
Chúng tôi đã nhiều lần tiến hành sưu tầm và khảo cứu về mảng Tục ngữ Tày
thông qua hai hướng: Một là học hỏi trực tiếp các ông già bà cả trong
nhiều làng bản Việt Bắc, nghe được câu Tục ngữ nào đều bút ký cẩn thận
vào sổ tay nghiên cứu. Hai là sưu tầm và sao lục lại các văn bản Nôm Tày
của một số gia đình có truyền thóng học vấn lâu đời thuộc các họ:
Hoàng, Vi, Nông, Lục, Ma, v.v.. trong các tỉnh nói trên mà các bậc tiền
bối trước đây đã có công lao sưu tập, ghi chép về Tục ngữ. Hướng thứ
nhất lấy phương pháp nghe ghi làm chủ yếu đã giúp chúng tôi thu thập
được ngót 7.000 đơn vị Tục ngữ từ cửa miệng lớp người già đang sống ở
địa phương. Tư liệu này được coi là chất liệu thô, trong đó có nhiều
biến thể khác nhau, có thể dùng cho việc đối chiếu, so sánh các dị bản
theo quan niệm nghiên cứu đồng đại. Hướng thứ hai đưa lại cho chúng tôi
có được một số văn bản mà ở đó người xưa đã ổn định hóa Tục ngữ Tày bằng ngôn ngữ văn tự cổ của họ là chữ Nôm. Các văn bản này cho phép chúng ta nhận diện Tục ngữ Tày trực
tiếp nhờ ngôn ngữ văn tự cổ của họ theo quan niệm nghiên cứu lịch đại.
Vận dụng cả hai nguồn tư liệu như vậy khả dĩ giúp cho người nghiên cứu
văn bản học về Tục ngữ Tày có nhiều cơ sở đáng tin cậy chắc chắn hơn.
Ở
đây chúng tôi muốn trình bày một vài kết quả và nhận xét bước đầu chưa
thật đầy đủ, tập trung vào một số đặc điểm chủ yếu và nổi bật của Tục ngữ cổ truyền của dân tộc Tày. (Sở dĩ nói Tục ngữ cổ truyền là để khu biệt với Tục ngữ hiện đại mới được sáng tạo ra từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mà về mảng này chúng tôi chưa có điều kiện tìm hiểu).
I. HÃY ĐIỂM QUA ĐÔI NÉT VỀ TÌNH HÌNH VĂN BẢN NÔM GHI CHÉP TỤC NGỮ CỔ TRUYỀN DÂN TỘC TÀY
1.
Hiện tượng sử dụng chữ cổ (chữ Hán và chữ Nôm) để ghi chép Tục ngữ cổ
truyền có thể có tính phổ biến ở một số dân tộc trên đất nước Việt Nam
mà họ đã sáng tạo ra văn tự riêng của mình, như: dân tộc Kinh với chữ
Nôm Kinh (còn gọi Nôm Việt), dân tộc Mường với chữ Nôm Mường, dân tộc
Dao với chữ Nôm Dao, dân tộc Tày với chữ Nôm Tày, v.v.. Những ai quan
tâm theo dõi các văn bản cổ của các dân tộc này đều có thể khẳng định
điều đó là hiện thực.
2.
Qua công tác sưu tầm sách vở Hán Nôm ở vùng dân tộc Tày, chúng tôi sao
lục được ba văn bản Nôm ghi chép về Tục ngữ Tày như sau:
Bản 1 mang tiêu đề Bảo Thư, có nghĩa là Sách Báu.
Sách chép tay trên giấy bản mỏng, tương tự như giấy bản dưới Kẻ Chợ.
Gồm 70 tờ đôi, đóng theo lối truyền thống giống như ở các sách của người
Kinh. Khuôn khổ sách : 16 x 22cm. Sách ghi chép cả thảy 5.115 đơn vị
câu Tục ngữ Tày. Ngay sau phần Lời khai bút
ở cuối tờ 3A có ghi rõ niên đại: (Hoàng triều Chiêu Thống nguyên niên
Mạnh đông cát nhật) (Tức vào ngày tốt tháng Mười âm lịch năm đầu đời
Chiêu Thống, năm dương lịch 1787). Ở dưới hàng niên đại là tên người sao
chép: Vi Văn Định bút lục (nghĩa là Vi Văn Định cầm bút chép).
Sách này hiện do ông Vi Văn Lộc, cán bộ Mặt trận Tổ quốc đã nghỉ hưu tại thành phố Thái Nguyen gìn giữ.
Bản
2 có tên là, đọc âm Tày là SlưNam cổ truyền, nghĩa là Sách chữ Nôm cổ
truyền. Sách chép tay trên giấy bản thô do địa phương chế, khổ: 15x21cm.
Gồm 60 tờ đôi ghi chép hơn 3.200 đơn vị Tục ngữ Tày.
Tờ 60B ghi rõ niên đại: (Hoàng triều Tự Đức nguyên niên) tức vào năm
đầu thờ Vua Tự Đức (1848). Dưới đó là tên người (Hoàng Văn Sơn bút hiệu,
nghĩa là người cầm bút là Hoàng Văn Sơn).
Sách này hiện do ông Hoàng Văn Xuân, cán bộ giáo dục hưu trí ở tại Lạng Sơn gìn giữ.
Bản 3 có tên đọc là Thổ ngữ.
Sách viết tay trên giấy bản thô, do địa phương tự chế. Gồm 150 tờ đôi,
đóng gáy theo lối truyền thống. Bai phất nước cạy. Khổ sách 19x25cm. Lỗ
chỗ có một vài vết mối mọt, nhưng vẫn còn đọc được chữ. Chữ viết rất
đẹp, chứng tỏ người có học công phu. Sách chép 4.751 đơn vị Tục ngữ Tày.
Trang cuối ghi niên đại: (Hoàng triều Thành Thái nhị niên tuế thứ Canh
Dần trọng xuân cát nhật) (tức vào ngày lành tháng 2 năm Canh Dần (1890)
đời vua Thành Thái năm thứ 2). Dưới niên đại là tên người: (Lục Minh
Kiến bút hiệu, nghĩa là người cầm bút tên là Lục Minh Kiến).
Sách này hiện do ông Lục Minh Kim - cán bộ chính trị quân đội, người Trùng Khánh, đã nghỉ hưu đang gìn giữ.
Ngoài
3 văn bản trên đây, cho đến nay chúng tôi chưa sưu tầm thêm được một
văn bản nào khác nữa. Mặc dù vậy cũng cứ coi đó là những văn bản cổ để
tiện nghiên cứu. Như thế thì Văn bản 1 cách đây xa hơn cả là 209 năm, Văn bản 2 cách đây 148 năm, còn Văn bản 3 mới chỉ cách đây 106 năm. Chúng tôi lấy các đơn vị Tục ngữ Tày ở 3 văn bản này đối chiếu với nhau để làm căn cứ cho việc tìm hiểu Tục ngữ Tày. Ở đây chúng tôi mới chỉ đi vào hai vấn đề chính, đó là Đặc điểm về cấu tạo và Đặc điểm về nội dung của Tục ngữ cổ truyền dân tộc Tày.
II. ĐẶC ĐIỂM VỀ CẤU TẠO CỦA TỤC NGỮ CỔ TRUYỀN DÂN TỘC TÀY
Tục ngữ cổ truyền dân tộc Tày được coi là những ngôn phẩm gắn liền với từ vựng tiếng Tày, chúng hiện thành dưới dạng những câu ngắn gọn, với tư cách như những đơn vị có sẵn, mang ý nghĩa hàm súc, hay được vận dụng trong lời nói hàng ngày,
để làm cho việc nói năng thêm uyển chuyển, sinh động và sự diễn đạt các
quan niệm, tư tưởng tình cảm thêm ý vị sâu xa. Do vậy trước hết chúng
ta hãy cùng nhau đi sâu vào tìm hiểu các đặc điểm về phương diện cấu tạo
của chúng.
1. Tuyệt đại bộ phận Tục ngữ Tày thường có 2 vế, mỗi vế thường có số từ cân xứng nhau và có quan hệ gắn bó với nhau theo những quy tắc nhất định về ngữ pháp và nổi bật là quan hệ về âm - vần. Có thể nêu lên một số trường hợp sau đây:
1a. Mỗi vế có hai từ cân xứng nhau:
Nhình khai, Chài slư.
(Gái gả, trai cưới)
Vần của tiếng Khai ở cuối vế 1 gieo với tiếng Chài ở đầu vế 2.
1b. Mỗi vế có 3 từthì vần cũng như vậy:
Slẩy pàn va, Nà tốc sủm
(Rẫy thoai thoải, Ruộng chỗ trũng)
Vần của tiếng Va ở cuối vế 1 gieo với tiếng Nà ở đầu vế 2.
1c. Mỗi vế có 4 từ cân xứng nhau:
Dú rườn pền qoai, Oóc cai pền vả.
(Ở nhà thì khôn, ra phố thành dại)
Tiếng cuối vế 1 là Qoai ăn vần với tiếng thứ nhì của vế 2 là Cai.
1d. Mỗi vế có 5 từ cân xứng nhau, thì có khi tiếng cuối vế trước ăn vàn với tiếng thứ 2 vế sau:
Ngần chèn táng tôm nhả, Tha nả táng xiên kim.
(Tiền bạc như đất cỏ, mặt mũi đáng nghìn vàng).
Lại có khi tiếng cuối của vế trước ăn vần với tiếng thứ 3 ở vế sau:
Fầy mẩy kiềng fạ đét, Fầy mẩy hec fạ fân.
(Lửa cháy kiềng thì nắng, lửa cháy chảo thì mưa)
1e. Mỗi vế có 6 từ cân xứng nhau cũng vậy:
Mí căm tệnh đảy quá vằn, Pjạ cồm bấu nàn lau đẳm.
(Không nắm tay được suốt ngày, Dao sắc không gọt được chuôi).
Ở câu này Vằn gieo vần với Nàn.
1g. Trường hợp mỗi vế có 7 từ cân xứng nhau xuất hiện khá phổ biến trong Tục ngữ Tày. Ví dụ: Đăm lẩp mủa chăm nua têm các, Đăm lăng mảu thai tác bền vằng.
(Cấy kịp vụ thì nếp, tẻ đầy nhà. Cấy sau vụ thì chết rũ, chỉ toàn cỏ lồng vực).
Trong đó, tiếng cuối vế 1 là Các, gieo vần với tiếng thứ 5 của vế 2 là Tác.
Nếu
như tìm hiểu kỹ hơn vào thi pháp ca dao, dân ca và truyện thơ cổ dân
tộc Tày, chúng ta sẽ có điều kiện để thấy rằng người Tày rất ưa chuộng
thể thơ truyền thống gọi là thất ngôn trường thiên. Hầu hết Sli, Lượn, và các truyện thơ nổi tiếng như Kim Quế, Tần Chu, v.v.. đều sử dụng các câu 7 tiếng, có gieo vần từ câu nọ với câu kia tương tự như ở Tục ngữ Tày có các vế cân xứng sóng nhau với quy luật vần đã thấy ở trên. Điều này khiến ta càng khẳng định hình thức 7 tiếng (từ) trong mỗi vế Tục ngữ Tày là hoàn toàn có quan hệ máu thịt với thi pháp truyền thống độc đáo của Văn học Tày trong quá khứ lịch sử. Cũng do đó mà Tục ngữ Tày rất dễ dàng đi vào các loại hình Văn học dân gian và thơ ca dân tộc này.
2. Bên cạnh các đơn vị gồm 2 vế có số lượng từ (tiếng) cân xứng nhau, còn có một số đơn vị gồm 2 vế so le nhau nghĩa là số từ ở vế sau nhiều hơn vế trước, nhưng vẫn giữ được những quy tắc gieo vần.
2a. Chẳng hạn trường hợp vế 1 chỉ có 3 từ (tiếng), còn vế 2 lại nhiều hơn 1 từ:
Pỏ hất quan, pác van toọng slổm
(Kẻ làm quan, mồm ngọt bụng chua)
2b. Hay ở vế 1 có 5 từ (tiếng), còn ở vế 2 lại hơn 2 từ (tiếng).
Lục báo mí siết rèng, Cổn lục slao chính kèng mà tó
(Con trai không tiếc sức, Mông con gái mới quay về với)
3. Có một bộ phận nhỏ các đơn vị Tục ngữ Tày rơi vào các trường hợp đặc biệt sau đây:
3a. Chỉ có một vế duy nhất gồm 4 từ (tiếng):
Chiêm mò tó hua
(Ngắm bò đóng bừa)
Ở ví dụ này vẫn được thực hiện trong nội bộ đơn vị: Tiếng Mò đứng thứ 2 vần với tiếng thứ 3 đứng sát ngay sau nó là Tó.
3b. Chỉ có một vế gồm 7 từ (tiếng).
Xẩu lẻ xẩu, kin khẩu mền táng đây.
(Xấu thì xấu, ăn cơm ăn gạo khắc đẹp)
4. Ngược hẳn lại có khi đơn vị Tục ngữ Tày lại gồm 3 vế trở lên, còn vần thì cũng thuộc một trong các quy tắc đã nêu rõ ở trên:
4a. Chẳng hạn gồm 3 vế mỗi vế 7 từ:
Fạ đăng bươn chiêng phiêng lát lí, Fạ đăng bươn nhỉ chí thau mằn, Fạ đăng bươn slam ham dủng doảng.
(Trời sấm tháng giêng nước lênh láng, Trời sấm tháng hai gơ dây khoai lang, Trời sấm tháng ba khiêng đàng hoàng).
Ở ví dụ này vần diễn ra ngày trong 2 từ liền nhau trong từng vế: Vế 1 Chiêng vần với Phiêng, vế 2 Nhỉ vần với Chí, vế 3 Slam vần với Ham.
4b.
Thậm chí có đơn vị Tục ngữ Tày hoàn chỉnh gồm những 11 vế, mỗi vế là
một câu, mang ý nghĩa độc lập tương đối. Chỉ nêu một ví dụ:
Xo
slam cặn mảc pjạ, Xo hả cặn mảc bai, Slíp hả hai tốc, Slip hôc hai
khoen, Slip chếp kin mẻ pết, Slip pet let nòn, Slip cẩu rậu cu, Nhỉ slip
hai mừa chu bấu tẻo, Nhỉ ất kin nguộn thai, Nhỉ sloong hấm fà lài bẩu
tẻo, Nhỉ slam chống ngoạt ngoẻo tẻo mà.
(Mùng
3 bằng con dao, Mùng 5 bằng lưỡi cuốc tròn, Mười rằm trăng lặn, Mười
sáu trăng treo, Mười bảy ăn con vịt, Mười tám nằm ngủ, Mười chín thu lu,
Hai mươi trăng đi chơi không về, Hai mốt trăng ăn lá ngón chết, Hai hai
trăng đắp chăn hoa, Hai mươi ba mới ngoắc ngoải quay trở lại).
Ở những đơn vị ngôn phẩm Tục ngữ Tày
dài gồm nhiều vế kiểu như trên, mỗi vế có tính độc lập tương đối về cả
hai mặt cấu tạo và nội dung, cho nên trong tiếng nói thường ngày, người
Tày tùy theo tình hình diễn đạt cụ thể mà chỉ cần sử dụng riêng lẻ một
vế, tức một câu trong đó mà thôi. Ví dụ: Nếu muốn nhận định cho trăng
ngày 22 Âm lịch thì chỉ cần nói:
Nhỉ Sloong hấm fà lài bấu tẻo
(Hai mươi hai đắp chăn hoa không về)
Bấy giờ nó có khả năng biệt thành một đơn vị Tục ngữ tách ra khỏi cả một ngôn phẩm nói trên.
Điều này cho thấy sự sống linh hoạt và sinh động của Tục ngữ Tày trong quá trình truyền miệng và nói năng.
III. ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG Ý NGHĨA CỦA TỤC NGỮ TÀY
Khi
tìm hiểu Tục ngữ của bất cứ dân tộc nào, người ta thường quan tâm chú
trọng đến nội dung ý nghĩa của nó. Qua mấy nghìn đơn vị Tục ngữ Tày viết
bằng chữ Nôm, chúng tôi nhận thấy nếu xét từ góc độ hệ thống chủ đề tức
nội dung ý nghĩa, tư tưởng tình cảm thì có thể phân chia Tục ngữ Tày thành hai loại lớn: Loại 1 nói về lao động sản xuất và loại 2 nói về con người - xã hội.
Loại 1 nói về lao động sản xuất
Nhìn chung loại này đề cập rất cụ thể đến các phương diện quan trọng sau đây:
1. Kinh nghiệm Dự báo thời tiết: Từ việc nhìn da trời mà có được hiểu biết:
Fạ lài pja lẻ phân, Fạ lài bân lẻ đet
(Trời vằn vẩy cá thì mưa, Trời vằn da hổ thì nắng)
Đến việc nghe tiếng sấm cũng rút ra kinh nghiệm:
Fạ đăng cón bấu luổn phân
(Trời sấm trước không hay mưa)
Hay căn cứ vào quầng trời mà đoán định thời tiết nhằm đề phòng thiên tai xảy ra:
Quằng lếch noòng, Quằng tồng loọng
(Quầng sắt lũ lụt, Quầng đồng hạn hán)
2. Kinh nghiệm thời vụ canh tác: Từ việc quan sát quả dâu da mà cày cấy cho đúng thời vụ:
Mác fầy ốt rù đang ván chả, Mác fầy cắm ham mạ nẳm nà
(Quả dâu gia vừa lỗ mũi thì gieo mạ, Quả dâu gia tím như dái ngựa thì cấy).
Đến việc nhà nông phải làm cho phù hợp với từng tháng:
Bươn chiêng hắp phai lỉ, Bươn nhỉ hắp phai nà
(Tháng giêng đắp phai cá, Tháng hai đắp phai ruộng)
3. Kinh nghiệm chọn đất cấy trồng:
Đin đăm qua pheng, Đinh đeng khẩu lẩy
(Đất đen trồng dưa gang dưa bở, Đất đỏ cấy lúa nương)
Tôm đây đăm phải, Tôm slại đăm thúo nhài
(Đất tốt trồng bông, Đất xấu gieo đỗ nho nhe)
4. Kinh nghiệm chọn giống má:
Muối mảc hất fằn, Muối pjằn hất fẻ
(Hạt chắc làm giống, Hạt mẩy làm má)
5. Kinh nghiệm sử dụng con đại gia súc cho thích hợp với canh tác:
Vài tậc thây nà dẻ, vài mẻ thân nà pài
(Trâu đực cày ruộng dầm, Trâu cái cày ruộng cao)
6. Kinh nghiệm mua trâu bò của người nông dân miền núi xưa:
Nắm slự mò khẻo lài, Nắm slự vài khẻo phước
(Chớ mua bò răng vằn, Đừng mua trâu răng trắng)
7. Yếu tố nước được đánh giá sâu sắc:
Slịp nặm má cốc, Bấu tó nặm tốc pjai
(Mười nước ngâm gốc, Không bằng một nước tưới ngọn)
Chúng ta có thể dẫn ra nhiều ví dụ khác nữa. Dầu sao ngần ấy cũng đã tạm đủ để nêu lên nhận xét: Tục ngữ Tày
được coi như một kho báu kinh nghiệm về dự đoán thời tiết, Kỹ thuật
canh tác, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, trong đó làm ruộng trồng lúa
nước dưới thung lũng và đồng thời làm nương rẫy trồng hoa màu. Để trồng
trọt và hái lượm có kết quả chắc chắn người lao động Tày cần phải thuần
thục canh tác, biết sản xuất và thu hoạch theo mùa, biết chọn đất và
chọn giống tốt. Việc chăn nuôi cũng phải thành thạo. Xét cho cùng trong
hoàn cảnh quá khứ với điều kiện sản xuất còn thấp kém, công cụ lao động
còn thô sơ, đất đai ở cùng núi phần lớn còn hoang dại, con người chịu
ảnh hưởng nặng nề thậm chí phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, thì sức lao
động của con người bỏ ra nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Họ phải làm
ăn vô cùng gian khổ, phải có những đức tính cần cù, bền bỉ và kiên cường
thì mới có thể sáng tạo ra được những giá trị cần thiết cho đời sống
của mình. Thực tiễn lao động sản xuất từ mấy nghìn năm trước để sống,
tựu trung căn bản vẫn là vấn đề hạt thóc hạt gạo nuôi sống con người.
Điều này nếu ở người Kinh đã từng thấm thía qua lời ca dao cổ:
Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần
Thì ở người Tày cũng không kém phần sâu sắc:
Mặt khẩu cẩu mặt hứa, nghĩa là: Một hạt gạo chín hạt mồ hôi.
Loại 2 nói về Cong người - Xã hội
1. Ở bộ phận Tục ngữ này tư tưởng nhân đạo, coi trọng con người, đề cao giá trị con người trở thành tư tưởng nổi bật:
Tua cần hơn ngần chèn
(Con người hơn tiền bạc)
Con người được coi là tinh hoa của trời đất.
Tua cần lẻ fạ đin va
(Con người là hoa của trời đất)
Cụ thể hơn nữa, người nam giới và người nữ giới được so sánh với những giá trị cao nhất như vàng, bạc:
Cần chài tự va kim, Cần nhình tự bjoóc ngần
(Nam tựa hoa vàng, Nữ tựa hoa bạc)
2.
Trong tiến trình lịch sử bảo vệ và phát triển dân tộc, người Tày không
ngừng vật lộn dai dẳng với tự nhiên khắc nghiệt và chống chọi quyết liệt
với loài ác thú và với giai cấp thống trị. Họ ý thức được sức mạnh của
lực lượng cộng đồng:
Lai cần chượng lai cần lẻ loọc, Cò đoỏc chượng cò đoọc lẻ thai.
(Nhiều người nuôi nhiều người thì sống, Độc thân nuôi độc thân thì chết).
3.
Nhu cầu về sự sống, về đời sống, về đời sống đòi hỏi hơn bao giờ con
người phải gắn liền với cộng đồng. Cộng đồng ở đây trước hết là những
người trong cùng một huyết thống, cùng một dòng họ. Từ cơ sở đó sản sinh
quan niệm tốt đẹp về làng xóm láng giếng cùng cảnh ngộ.
Lầy cà tốc tâừ, Phỉ noọng tốc tỉ
(Mái gianh ở đâu, Anh em ở đó)
Cúng giống như ở người Kinh dưới đồng bằng có quan niệm: “Bán anh em xa mua láng giếng gần” thì ở người Tày rất quý trọng bà con hàng xóm láng giềng.
Slíp pỉ noọng tàng quây, Bấu táy hua đuây tò tó
(Mười anh em đường xa, Không bằng người ở sát đầu cầu thang)
4. Để giữ vững tình thân ái giữa hàng xóm láng giềng, người Tày luôn luôn nhắc nhở nhau nêu cao đức tính thật thà trong ăn ở:
Kin ngay phuối khát
(Ăn ngay nói thật)
5. Không thể sống lá mặt lá trái, dù cá nhân có sắc sảo tài ba đến đâu:
Khêm bấu sliểm sloong hua
(Kim không nhọn hai đầu)
Chính đó cũng được coi là bản lĩnh quan trọng của con người.
6. Đồng thời lại phải sống sao cho cao thượng, kiên quyết không bao giờ làm điều xấu xa để rơi xuống vũng bùn tội lỗi:
Nhẳn slưa quà, Bấu nhẳn đa đát
(Thà chịu hổ vồ, Chứ không chịu điên đảo)
7.
Về cách cư xử đối với bản mường, không phải bao giờ trong cuộc sống của
con người cũng được về phần mình tất cả mọi cái đẹp mĩ mãn, lẽ thường
tình giống như dòng sông bên lở bên bồi, con người có được có mất, có
đầy có vơi, cho nên Tục ngữ Tày đã đưa ra một nguyên tắc nhân sinh:
Bảng nặm bá bố đảy têm
(Ống nước đổ không bốc lại được đầy thưng)
Ở
đây có thể nói, dựa vào nhau để sống còn, nhường nhịn để chan hòa, đồng
thời cũng là để cho công cuộc sản xuất và đấu tranh đạt đến thắng lợi.
Đó là cơ sở then chốt để cho người Tày đề cao giá trị con người với
những phẩm hạnh mà nó cần phải có. Đó cũng chính là kinh nghiệm lịch sử -
xã hộ lớn nhất, căn bản nhất sáng ngời lên từ Tục ngữ dân tộc Tày Việt Nam.
8. Hơn nữa Tục ngữ Tày
còn là tấm gương phản ánh một số đặc điểm lành mạnh trong sinh hoạt gia
đình và xã hội của dân tộc Tày, về tập tục ăn ở, giao tế, cưới hỏi, hội
hè, về quan hệ vợ chồng, cha con, anh em ruột rà. Chằng hạn về tình chị
em:
Van bấu quá nựa pêt, Chếp bấu quá pả nả
(Ngon không hơn thịt vịt, Tốt không hơn chị em)
Hay về xưng hô:
Cải hất pỉ, Ỷ hất noọng
(Lớn làm anh, Bé làm em)
Về hôn nhân gia đình:
Nhình khai, Chài slự
(Gái gả, Trai cưới)
Hay về quan hệ máu mủ:
Fừn tầư thau tỉ
(Củi đâu dây đó)
9. Những quan niệm, nếp sống dân tộc in dấu đậm nét trên bộ mặt Tục ngữ Tày, gợi nhiều hứng thú cho sự hiểu biết đời sống vật chất và đời sống tinh thần ngày trước của nhân dân lao động Tày. Ngoài ra Tục ngữ Tày còn mang nhiều yếu tố triết học duy vật biện chứng.
9a. Nhận thức sự tồn tại thế giới bên ngoài có mối liên hệ sâu sắc với nhau:
Nả đây fầy rủng, Rủng fầy đây nả
(Mặt đẹp lửa sáng, Lửa sáng đẹp mặt)
9b. Nhận thức sự biến đổi phát triển của sự vật:
Mooc lai hèn phân
(Quá mù hóa mưa)
9c. Và mối liên hệ nhân quả:
Nặm khửn lừa chày khửn
(Nước lên thuyền cùng lên)
9d. Cũng như quan niệm về thời và vòng đời của con người:
Bjoóc mì xuân, Cần mì thí
(Hoa có xuân, Người có thì)
10. Trong xã hội nông nghiệp lạc hậu, con người ta không khỏi nảy sinh sự mê tín dị đoan. Tục ngữ Tày cũng tỏ thái độ rõ rệt chống lại những điều mê muội quàng xiên nảy sinh từ thực tế xấu xa của những người làm nghề bói toán:
Mạy héo chính slan dạ, Eo bả chính hất pói
(Cây héo mới đan thạ, Đĩ thõa mới làm bói)
Trong hoàn cảnh trước đây mà mỉa mai với giọng cay độc như thế cũng là một thái độ rất mạnh mẽ và dứt khoát.
11. Tục ngữ Tày cổ truyền
được sáng tạo trong thời đại trước Cách mạng Tháng Tám 1945, cho nên
khó lòng tránh khỏi có những câu chiụi sự hạn chế của lịch sử là điều
cũng rất dễ hiểu. Để xem xét vấn đề cho khách quan có lẽ cũng cần nêu ở
đây hai ví dụ:
Nhẳn tốc tua mạ, Bố nhẳn cạ chử slư
(Thà mất một con ngựa, Chứ không chịu dạy bảo mất đi một chữ)
Rõ
ràng việc đề cao một cách thái quá chữ nghĩa đi tới cực đoan như trên
thuộc về thái độ độc chiếm văn hóa, không muốn mọi người hơn mình về học
vấn và văn hóa.
11b. Hay quan niệm trọng nam khinh nữ nặng nề:
Mẻ nhình bặng mác phục tốc lồng đin lẻ nẩu, Pỏ chài bặng mác hấu, chết cấu tẻ chệt hom.
(Đàn bà như trái bưởi trái bòng rơi chạm đất là thối, Đàn ông như thảo quả càng cũ lại càng thơm).
Mặc dầu vậy phần tinh hoa của Tục ngữ Tày vẫn là phần chủ yếu và bao trùm.
Đôi điều cố gắng trình bày trên đây cũng mới chỉ là muôn một trong kho Tục ngữ cổ truyền dân tộc Tày. Chí ít cũng có thể coi Tục ngữ Tày
như một bó đuốc sáng truyền qua nhiều thế hệ, đem đến cho các thời đại
sau nhiều kinh nghiệm quý báu. Đối với những người nghiên cứu Hán Nôm nó
có thể mở rộng niềm cảm thông, tinh thần trân trọng trước một mảng Văn
học dân gian không bao giờ băng hoại - đó là Tục ngữ cổ truyền dân tộc Tày.
Thông báo Hán Nôm học 1996 ( tr.187-203)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét