Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2016

MỘT TÀI LIỆU VỀ MẠCH LÝ VIẾT BẰNG CHỮ NÔM TÀY





MỘT TÀI LIỆU VỀ MẠCH LÝ VIẾT BẰNG CHỮ NÔM TÀY

CUNG KHẮC LƯỢC

Tiến sĩ. Viện Nghiên cứu Hán Nôm

         I. Đặc điểm tài liệu:

         1. Nhan đề ghi ở tờ đầu tài liệu: Đọc âm Tày:

Păt mẹc toát yếu: Dịch nghĩa tiếng Việt: Bắt mạch toát yếu.

         Chú ý: Trong Nhan đề chữ Mẹc (Mạch) được viết theo dạng có chữ: Huyết +1/2Mạch, chứ không viết theo dạng của 2 chữ phổ biến là.

         2.Niên đại ghi ở tờ 1a: 皇 朝 紹 治 壬 寅 年 春 月 吉日. Âm Hán Việt: Hoàng triều Thiệu Trị Nhâm Dần niên xuân nguyệt cát nhật, tức: Ngày tốt tháng xuân năm Nhâm Dần (1842) thời vua Thiệu Trị.

         Như vậy tài liệu cách ngày nay đã 260 năm hơn vài tháng.

         3. Tên người sao chép ghi sau dòng niên đại:

         良 醫 朱 文 寶 奉 抄Âm Hán Việt: Lương y Chu Văn Bảo phụng sao.

         * Về tiểu sử của Lương y Chu Văn Bảo, chúng tôi đã có tìm hiểu nhưng chỉ thu được một vài điều sau: Cuốn phả ký hiện do cụ Chu Văn Tiến 80 tuổi gìn giữ, chỉ ghi chép một số nét chủ yếu gồm: tên huý, tên tự, tên khấn lúc cúng giỗ, ngày huý kỵ và phần mộ của các đời từ thuỷ tổ đến Lương y Chu Văn Bảo. Lương y là tổ tứ đại của cụ Tiến. Cụ Tiến còn cho biết lời truyền ngôn rằng: Các cụ đời trước gọi cụ Lương y là “Cụ Thày”. Đến ngày giỗ Lương y gọi là “giỗ Cụ Thày”. Cụ Thày sinh thời mạch hay thuốc giỏi. Chữa trị cho người bệnh chủ yếu dùng thuốc nam là các cây cối, lá lẩu, quả củ của rừng núi. Cụ Thày có lòng thương xót người nghèo khổ bị hoạn nạn ốm đau. Nhiều khi cứu chữa cho không, chứ chẳng để ý đến công lao ơn huệ. Cụ Thày thường hay đọc sách và ghi chép bút ký về ban đêm. Cuốn păt mẹc toát yếu là di bút của Cụ Thày – Lương y Chu Văn Bảo.

         4. Trước hàng niên đại và tên người sao chép, sách còn có 1 dòng gồm 8 chữ: 家 書 流 傳 承 繼âm Hán Việt: Gia thư lưu truyền lục lan thừa kế. Nghĩa là: Sách nhà truyền để con cháu nối theo.

         5. Sách gồm có 50 tờ đôi, khổ: 0,16 x 0,24 cm. Đóng theo lối truyền thống. Giấy bản tự chế, màu ngà vàng, sờ vào thấy thô và ráp.

         6. Chữ viết tay nắn nót. Chữ nào chữ nấy rất rành mạch, rõ ràng. Chủ yếu là chữ Nôm Tày, ngoài ra có một số chữ Hán là những thuật ngữ về mạch và đông y. Có thể nhận thấy một vài đặc điểm tự dạng như sau:

         - Nhiều chữ được viết giản thể:

         - Nhiều khi một từ được ghi bằng các dạng chữ khác nhau.

         Do vậy muốn đọc hiểu tài liệu này đòi hỏi phải có kinh nghiệm, đọc nhiều tài liệu dưới dạng viết tay của người Tày mới được.

II. Nội dung tài liệu

         II.1. Tài liệu gồm 27 bài có tính chất toát yếu về 27 loại mạch:

         1. Phù2. Trầm3. Trì4. Sác5. Hoạt6. Sáp7. Hư8. Thực9. Trường10. Đoản11. Hồng12. Vi13. Khẩn14. Hoãn15. Khâu16. Huyền 17. Cách18. Lao19. Nhu20. Nhược21. Tán22. Tế23. Phục24. Động25. Súc26. Kết27. Đại.

         Ở cuối tài liệu là bài “Chẩn mạch sinh khắc trong bốn mùa”

         II.2 Ở đây chỉ đi vào một vài bài cụ thể để cùng nhau bước đầu tìm hiểu nội dung căn bản của tài liệu.

         Hãy đọc bài số 1: Mẹc fù (Mạch phù). Đọc theo phiên âm Tày là: Mẹc fù lẻ mạc dương. Bệnh dú biểu. Fù trì lẻ phong. Fù sác lẻ nhiệt. Fù khẩn lẻ hàn. Fù tọ cạ mì lực lẻ phong nhiệt lai. Fù tọ cạ bấu mì lực lẻ huyết hư. (Xem nguyên văn chữ Nôm Tày qua bản phôtôcopy).

         Dịch nghĩa: Mạch phù là mạch dương, bệnh ở biểu. Phù trì là phong, phù sác là nhiệt, phù khẩn là hàn. Phù nhưng mà có lực là phong nhiệt nhiều, Phù nhưng mà không có lực là huyết hư.

         Bộ phận thứ hai của bài Mẹc fù (Mạch phù) như sau:

         Bộ thốn fù lẻ đầu thống, vất váng, tha đăm, sinh phong hoặc mì phong đàm tụ dú bộ hung. Bộ quan fù lẻ thổ suy, kiêm mộc vượng. Bộ xích fù lẻ đại, tiển tiện bấu lưu thông.

Dịch nghĩa:

         Bộ thốn phù là nhức đầu, chóng mặt, hoa mắt, sinh phong, hoặc có phong đàm tụ ở trong ngực. Bộ quan phù là thổ suy, kèm theo mộc vượng. Bộ xích phù thị đại, tiểu tiện đều không thông.

         Những điều ghi chép như trên, theo ý kiến của vài nhà đông y có tiếng ở Hội Y học dân tộc Hà Nội như Vũ Xuân Quang, Nguyễn Văn Bách, Ngô Quý Phụng... thì chúng được coi là những hiểu biết rất cơ bản của lý luận về mạch ở đây là mạch phù với những đặc điểm chủ yếu của nó và biểu hiện qua bệnh trạng ở ngoài bệnh. Cách viết như vậy rất kiệm chữ và vẫn đảm bảo được sự chính xác của nội dung chuyên môn.

         Từ bài thứ hai là bài Mẹc sác đến bài mạch cuối cùng là Mẹc đợi, thì nội dung tài liệu ở từng bài lại gồm có 3 phần rõ ràng: 1. Thể trạng, 2. Tương sách, 3. Chủ mệnh. Ví dụ: Bài Mẹc đợi là bài thứ 27:

         Mẹc đợi thuộc âm.

         Thể trạng: Mẹc động lưng chừng ngừng bấu mừa đẩy. Bụng động slí nhân thành mẹc đợi. Bệnh nhân mì mẹc nẩy lẻ chữa đẩy. Thường nhân chập mẹc nẩy, cẩn thận pi thọ nè.

         Tương sánh: Mẹc sác thi thoảng dừng lẻ mẹc súc. Mẹc hoãn tọ cạ mì dừng lẻ mẹc kết. Dừng bấu hồi lẻ mẹc đợi. Mẹc két lẻ shổng. Mẹc đợi lẻ thai. Sloong mẹc bấu tồng.

         Chủ bệnh: Mẹc đợi lẻ tạng khí suy. Phúc thống tiết lị, hạ nguyên khuy. Hoặc thổ tả, dú trung cung đầy. Mẻ nhỉnh mì thai đạ slam bươn.

Dịch nghĩa:

         Mạch đợi thuộc âm.

         Thể trạng: Mạch động giữa chừng ngừng lại không thể trở về được. Động ở trong bụng, nhân đó mà thành mạch đợi. Người bệnh có mạch này là còn chữa được. người thường gặp mạch này phải cẩn thận tuổi thọ đấy.

         Tương sánh: Mạch sác mà thi thoảng lại dừng gọi là mạch súc. Mạch hoãn nhưng lại có dừng gọi là mạch kết. Dừng mà không thể hồi lại được gọi là mạch đợi. Mạch kết thì sống. Mạch đợi thì chết. Hai mạch ấy khác hẳn nhau.

         Chủ bệnh: Mạch đợi là do tạng khí bị suy. Bụng đau đi lỵ là hạ nguyên khuy tổn. Hoặc thổ tả do đầy ở trung cung. Đàn bà có chửa đã được 3 tháng.

         * Qua đó ta có thể thấy cách thức trình bày nội dung mạch theo các phần như trên rất tiện lợi cho sự tiếp thu của người mới thâm nhập vào chuyên môn.

         * Cuối tài liệu còn có một bài khá quan trọng Chẩn mạch sinh khắc trong bốn mùa, đọc âm Nôm Tày là Chẩn mẹc sinh khắc dú slí mủa.

         Đọc kỹ nội dung bài này ta thấy, người viết muốn hướng chú ý đến sự xung khắc của mạch giữa bốn mùa, chính chỗ đó là cánh cửa vô cùng quan trọng để phân biệt giữa cái sống và cái chết. Thú vị hơn nữa, Lương y Chu Văn Bảo còn dự đoán trước những trường hợp mạch khắc như vậy thì bệnh nhân sẽ chết vào những ngày như thế nào.

         Xin hãy đọc phần dịch nghĩa sau đây:

         - Mùa xuân mà gặp phải mạch mùa thu thì không sống được.

         Người bệnh sẽ chết vào ngày Canh Thân hay Tân Dậu.

         - Mùa hạ mà gặp phải mạch mùa đông thì không sống được.

         Người bệnh sẽ chết vào ngày Nhâm hay ngày Quý.

         - Mùa đông mà gặp phải mạch tứ quí thì trong 4 ngày là Mậu hay Kỷ, hay Thìn hay Tuất sẽ gặp đại hạn (chết).

         - Mùa thu mà gặp phải mạch tứ quý thì trong 2 ngày là Bính hay Đinh sẽ gặp hình khắc (chết).

         * Những tiên lượng trên đây trước hết là những kinh nghiệm sâu sắc của người viết ra tài liệu này là Lương y Chu Văn Bảo. Chắc hẳn phải có độ dày trong chữa trị bệnh nhiều năm và một vốn học vấn đề Đông Y như thế nào mới dám ghi lại bằng giấy trắng mực đen minh bạch để truyền lại cho con cháu đời sau thừa kế.

III. Kết luận:

         Từ những điều trình bày trên đây, chúng tôi muốn nêu lên 2 nhận xét chính sau đây:

         1. Có thể coi đây là một cuốn sách đúc kết những điều cốt yếu của mạch lý một cách tinh giản. Nó rất có ích lợi cho những người làm nghề Đông Y trong thời đại hiện nay.

         2. Nếu xét từ góc độ ngôn ngữ - văn tự cổ dân tộc ít người Việt Nam thì đây còn là một tài liệu quý hiếm về chữ nôm Tày được viết dưới dạng văn xuôi, cách ngày nay đã hơn 260 năm.

Thông báo Hán Nôm học 2002, tr.345-350

0 nhận xét:

Đăng nhận xét