Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2016

VỀ CUỐN SÁCH NÔM TÀY MANG ĐẬM GIÁ TRỊ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG





VỀ CUỐN SÁCH NÔM TÀY MANG ĐẬM GIÁ TRỊ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG

HOÀNG PHƯƠNG MAI

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

       Qua quá trình tìm hiểu toàn bộ mảng thư tịch Nôm Tày – Nùng hiện đang phục vụ độc giả tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (gồm hơn 70 cuốn), chúng tôi thấy ngoài một lượng lớn sách thuộc các thể loại như: truyện thơ (26 sách với 14 nội dung câu chuyện khác nhau), lượn (khoảng 15 sách), sli lẩu (khoảng 10 sách), then, văn cúng..., còn có 2 cuốn sách mang nội dung giáo dục đạo đức truyền thống. Tuy chiếm số lượng rất ít, song đây là những cuốn sách mang tính giáo dục cao, có giá trị lớn góp phần làm nên truyền thống đạo đức tốt đẹp của đồng bào Tày Nùng.

       Cuốn thứ nhất mang ký hiệu: VNb. 155, khổ 14,5 x 16 cm, gồm 18 tờ mỗi tờ 2 trang, chữ chép tay trên nền giấy dó bản thô. Tờ đầu tiên bị rách mép, thủng ở giữa nên bị mất một số chữ. Những tờ tiếp theo đa phần còn nguyên vẹn, chỉ có một vài tờ rách mép, mất một đôi chữ. Tờ cuối cùng chỉ còn là 1/2 tờ ở sát mép sách. Căn cứ vào văn cảnh cho thấy văn bản bị mất những tờ đầu và tờ cuối. Toàn bộ văn bản chia làm 11 đoạn, được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, trong đó có một đoạn mở đầu và mười đoạn tiếp theo được đánh số thứ tự từ 1 đến 10.

       Cuốn thứ hai mang ký hiệu VNb. 159, khổ 19 x 21 cm, gồm 30 tờ, giấy dó đã ố sờn, chữ viết tay, văn bản này cũng bị mất đoạn mở đầu. Nội dung văn bản ngoài phần giáo dục đạo đức từ tờ 1a đến tờ 17a, phần còn lại là câu đối và truyện thơ. đây chúng tôi chỉ xem xét phần giáo dục đạo đức. Phần này gồm 9 đoạn; một đoạn mở đầu và chín đoạn tiếp theo được đánh số thứ tự từ 2 đến 9.

       Hai văn bản kể trên có nội dung tương tự như nhau, chỉ khác nhau ở một số câu chữ. Văn bản thứ hai ít hơn văn bản thứ nhất đoạn thứ nhất và đoạn cuối cùng. Do vậy, chúng tôi chọn giới thiệu tóm tắt nội dung văn bản thứ nhất để giúp chúng ta tiếp cận và hiểu sâu sắc hơn về đồng bào dân tộc thiểu số Tày – Nùng, còn toàn văn bản xin được giới thiệu vào một dịp khác.

       Đoạn 1: Nói về đạo trung thần.

       Trời đất sinh ra thiên hạ muôn dân, việc quốc gia lắm sự nhọc nhằn, lắm việc nhiễu nhương. Vậy nên phải có bậc thánh đức minh quân trị vì thiên hạ, phải có bậc trung thần phò tá cho vua. Xưa nay sử sách đều ghi: đã là bậc trung thần thì phải hết dạ thờ vua, không được sinh lòng mưu mô phản bội.

       Có như thế thì thiên hạ mới được thái mình, no ấm, quốc gia mới được vững bền muôn thuở.

       Đoạn 2: Nói về đạo cha con.

      Con người ta sinh ra nếu không được dạy dỗ, bảo ban, không được học hành thì sẽ ngu muội, nói năng ngang ngược chẳng khác nào con chó, con lợn dưới sàn. Người đời sẽ chê cha không bảo ban dạy dỗ. Cha khuyên con trẻ hãy chăm chỉ học hành cho tinh thông mọi nhẽ để sau này nên nghiệp giàu sang, thành người tài đức. Nuôi con, cha những mong con khôn lớn nên người. Nuôi con, cha những lo liệu dựng vợ gả chồng. Bởi trai lớn chưa vợ sẽ lông bông phiêu dạt, như con thuyền vượt ghềnh nước lũ. Con gái phải lo học hỏi để thành người khôn ngoan, khéo léo; lớn lên cha phải lo gả bán. Gái xuất giá tòng phu hoà thuận. Trai lớn lên dựng vợ yên vui. Đó là chuyện từ thời Phục Hy truyền lại. Các con phải nhớ công cha dạy mẹ nuôi.

       Đoạn 3: Nói về việc hôn nhân

       Dạy cho khắp bản trên xóm dưới; Hôn nhân là việc từ thời Phục Hy truyền lại. Vợ chồng ăn cùng mâm, ở cùng nhà, phải sống sao cho thuận hoà, vui vẻ đến khi đầu bạc răng long. Chớ nên nghe lời người ngoài dèm pha, xúi dục mà mắng chửi nhau. Nếu có việc chẳng được như ý thì chớ nên để bụng. Sống làm người phải khoan dung, nhân nghĩa, chớ sinh bụng tham ăn, bịa đặt, bất nhân. Vợ chồng phải hết dạ thương nhau, dù xa cách chẳng thể hai lòng. Ấy là lời truyền dạy nhân gian.

       Đoạn 4: Khuyên dạy kẻ làm trai

       Kẻ làm trai được cha mẹ nuôi nấng khôn lớn nên người, lại lo chuyện dựng vợ gả chồng, cho nên chớ sinh bụng gian ác xấu xa. Nhớ khi xưa còn thơ dại, cha mẹ hết lòng nuôi nấng, dạy dỗ:

Chứ pửa xưa nhằng nọi nhằng eng
Pỏ mẻ liệng thuổn rèng slon hẩư
Bưởng rằm mẻ dú bưởng hâư lục nòn
(Nhớ khi xưa còn dại còn non
Cha mẹ nuôi hết công dạy dỗ
Phía ướt mẹ chịu phía khô con nằm).

       Mẹ cha chịu muôn phần khó nhọc, vất vả những mong đem lại cho con những gì tốt đẹp. Vì thế, đạo làm con đối với cha mẹ phải hiếu thảo, đối với tổ tông phải thờ cúng.

       Làm người chớ phàm ngôn xấu bụng, phải khoan dung, thân ái với xóm làng, chớ ăn ở mất lòng bạc nghĩa. Ruộng rẫy do cha mẹ để lại cho, chớ nên đi tranh giành, xâm phạm của người khác. Xưa kia, vua Thần Nông làm ra ruộng rẫy để phân phát cho muôn dân cày cấy. Chớ sinh lòng tham lam chiếm ruộng đất của người khác kẻo sau này khi chết về Mường khác không có đất mà cày cấy. Phúc tốt thì có con kế nghiệp. Nếu không lúc qua đời rồi thì ruộng đất bỏ hoang, ruộng rãy dẫu nhiều nhưng đâu được hưởng.

       Làm người chớ ăn nói sai ngoa kẻo muôn mắt nhìn vào, tiếng đồn khắp chốn. Làm người chớ bất nhân, trộm cắp bởi “xứ xứ hành thâu nhân bất phú”. Làm người phải sống cho ngay thẳng, chớ để người ta cho mình là loại gian tà, vô nghĩa:

Cần rầư sinh hạ thế kỷ hâng
Vô tham họa bất xâm can cắp
Thủ phận sầu nan nhập mà thân
(Người ta ở trần thế bấy lâu
Không tham lam họa chẳng đến thân
Biết thủ phận thì sầu khôn tới)

       Đoạn 5: Khuyên mọi người chớ nên hư hỏng rượu chè.

       Thời xưa có ông vua nhà Hán vì mải mê rượu chè, quên mất việc quốc gia đại sự. Do vậy, uống rượu thì chút ít cho vui, chớ nên uống vô hồi kỳ trận. Ai hay rượu thì dẫn đến hại người, rượu vào có ngày bại thân mất mạng, trở thành người vô tình bạc nghĩa, lời nói trở nên xấu xa thất luật bởi rượu vào thì lời ra. Như thế sẽ xấu mặt cả vợ con, thân thích.

        Làm người phải sống sao cho tốt đẹp, chớ có đi dòm ngó vợ người kẻo có ngày người ta bắt gặp thì khốn đến thân. Làm người chớ tham lam của người khác. Nói lời ra phải giữ lấy lời, vay mượn của người chớ để lâu la, chớ sai ngoa mong chiếm của người. Đối xử với nhau chớ tính lạng tính cân, lo toan lời lãi. Làm người, phải nghĩ suy thấu đáo, ăn ở đủ đầy. Hễ thấy người trong bản trong mường có việc, thì dẫu mình không phải người thân cũng nên tới giúp, chớ nên trốn tránh. Phải yêu thương nhau thật bụng, xem việc của người cũng như việc của ta. Chớ thấy việc của người mà làm cho qua quýt.

       Làm người phải sống cho ngay thẳng thật thà, ngõ hầu để phúc cho con, đâu phải chỉ ăn no là đủ. Sống sao cho đến khi già bạc đầu râu không bị cười chê là đồ bất đạo.

       Đoạn 6: Đoạn này khuyên dạy con gái

       Cha mẹ gắng hết lòng bảo ban, dạy dỗ, mong con gái thành người ngoan ngoãn, biết kính trọng thương yêu mọi người, chăm chỉ việc nữ công gia chánh. Làm thân con gái chớ sinh thói tham ăn, xấu bụng; sớm khuya biết lo toan việc nhà tươm tất; biết chau chuốt dáng hình cho đẹp. Phải khéo tay bếp núc, mọi thứ cho ngon, để khách khứa thoả lòng. Người tốt thì tiếng lành đồn xa. Người nào lười biếng xấu xa thì khác nào loài chó lợn.

“Tằng mỏ chắng lồng lảng xa phừn
Mỏ khảu thâng chang cừn chắng phựt
Mỏ khảu chiêu phjăc thuc lẹo đăm
Tắc tính bấu ngòi lăng ngòi nả”
(Đặt nồi mới xuống sàn kiếm củi
Nồi cơm tới nửa đêm mới chín
Cơm canh xong thời đã nửa khuya
Đơm gắp chẳng nhìn trước ngó sau).
Người như thế xấu xa hết mức.

Làm người chớ lười biếng ngủ ngày kẻo người ta chê mẹ chẳng biết dạy con. Người con gái đảm đang khéo léo, khôn ngoan, ăn nói thông sử sách điển kinh sẽ khiến cho cả nhà mát mặt, tiếng thơm lan rộng. Con gái chớ kênh kiệu khoe khoang. Một là biết chăm lo bếp núc cơm canh. Hai phải lo chăm chỉ đảm đang, “hêt việc như nặm luẩy lồng hat” (làm việc như nước thác xuống ghềnh). Đến ngày hội Lồng tổng, phải biết làm mâm cỗ đẹp sang, không được gian dối cẩu thả. Con gái không được rong chơi, ngắm hoa hưởng nguyệt thâu đêm. Phải lo việc đi lại chợ phiên kẻo người ta cười chê cha mẹ không dạy bảo.

       Đến tuổi trưởng thành, con gái về nhà chồng phải biết đường ăn nhẽ ở sao cho thuận vợ thuận chồng, biết lo toan tính cốc phòng cơ, biết thức khuya dậy sớm đảm đang mọi việc.

       Đoạn 7: Nói về đạo anh em:

“Xưa tặt mì đệ huynh thủ túc
Câu ví mạy lẳm côc táng bâư
Căt lạc lẻ càng tầư cụng héo”
(Xưa có câu đệ huynh thủ túc
Lại ví cây lắm gốc nhiều cành
Cắt rễ đi cành nào chẳng héo).

       Đã là anh em phải thương lẫn nhau, chớ lìa bỏ nhau. Anh chớ nghe lời vợ anh, em chớ nghe lời vợ em vì vợ chỉ là người ngoài. Sách xưa có câu anh em như tay với chân, vợ chồng như áo ấm sớm khuya. Anh em là nghĩa đồng sinh cho nên ăn ở phải thuận hoà. Nếu nhà anh có việc, không cần bảo người em cũng đến giúp ngay tức khắc. Như thế mối quan hệ anh em trở nên tốt đẹp. Anh em phải biết yêu thương đùm bọc lẫn nhau, chia sẻ cho nhau từ miếng ăn cái uống. Người làm anh có quyền huynh thế phụ, làm phận em phải biết nghe lời.

       Nếu nhà anh phú quý giàu sang chớ để em chịu hèn chịu khổ bởi xấu tốt chi cũng là cốt nhục...

       Đoạn 8: Khuyên bảo người trưởng nam

       Áo còn có cái đỏ cái vàng huống chi người chẳng có người khôn người dại. Đó là do tạo hoá làm ra vậy. Sống làm người, trước nhất phải kính trọng chú bác họ hàng, thứ nhì phải kính trọng anh em, thứ ba phải kính trọng hết mọi người trong nhà, thứ tư phải kính trọng hai bên vợ chồng, thứ năm chớ bậy bạ lung tung. Phải kính trọng hết thảy mọi người. Làm người phải ăn ngay nói thẳng, chớ nói đứng dựng ngược, nói lời phải giữ lấy lời. Làm gì, nói gì cũng phải giữ cho mình ngay ngắn, tốt đẹp.

       Làm người không được phép lăng nhăng, chớ khoe khoang cậy tài. Đấng nam nhi phải ăn ở cho có nhân có nghĩa.

       Đoạn 9: Nói về đạo vợ chồng

       Làm chồng chớ nên đánh mắng vợ, chớ ong bướm nguyệt hoa. Vợ chồng ăn cùng mâm ở cùng nhà, nói năng với nhau phải nhẹ nhàng từ tốn, chớ mắng chửi nhau. Nếu không biết thì phải dạy phải bảo. Vợ chồng phải kính trọng cả hai bên họ hàng. Dẫu giận vợ vẫn phải kính trọng người thân nhà vợ, chớ nói năng bạc ác. Làm chồng, làm cha phải yêu vợ thương con.

       Đàn ông nếu có hai vợ, thì phải để vợ cả nắm quyền nội trợ, không được để vợ cả chịu thiệt mà dành hết cho vợ bé. Đàn bà mà lấy hai chồng thì tội lớn lắm, người ta sẽ đồn đại lung tung.

       Người làm vợ phải hết lòng thương yêu, kính trọng chồng con, phải yêu thương con chồng như chính con mình đẻ ra. Nếu vợ là người khôn ngoan, lịch sự thì chớ nên bỏ. Nếu vợ làm điều gì chướng tai gai mắt thì phải góp lời, chớ nên đánh mắng. Vợ cũng như chồng, phải biết chăm lo vun vén cho gia đình mới được hoà thuận, yên vui.

       Đoạn 10: Khuyên bảo đấng nam nhi chớ nên lười biếng

       Chớ mê mải chơi hoa dạo nguyệt, phải lo việc nông tang đồng áng. Cha mẹ có thương yêu mới đem lời dạy dỗ, làm con thì biết nghe lời nếu không sẽ có ngày đánh mất mình.

       Làm người thì phải có cha dạy mẹ khuyên, không nên mê mải chơi bời, kẻo thời gian vùn vụt trôi qua, chẳng mấy chốc đã hết đời người.

      Từ cuốn sách kể trên ta thấy kho tàng thư tịch chữ Nôm của đồng bào dân tộc thiểu số Tày Nùng không chỉ phản ánh những câu sli tiếng lượn làm say đắm lòng người, những câu chuyện muôn màu được chép bằng thơ, những phương thuốc dân gian huyền diệu... mà nó còn lưu giữ bao nét đạo đức truyền thống quý báu của dân tộc trong sinh hoạt và cư xử. Sách khuyên bảo cách cư xử trong gia đình (giữa cha với con, giữa anh với em, giữa vợ với chồng) lẫn ngoài xã hội (đạo vua tôi, tình xóm giềng). Sách dạy người ta phải giữ trọn đạo làm người, con trai phải cần cù, không mải mê rượu chè, con gái phải đảm đang nữ công gia chánh. Tuy trong sách còn một đôi chỗ hạn chế về mặt tư tưởng song đó là những hạn chế mang tính thời đại. Vượt lên tất cả vẫn là đạo lý quý báu của đồng bào dân tộc Tày Nùng nói riêng, cũng như dân tộc Việt Nam nói chung mà chúng ta cần phải gìn giữ và phát huy.

Thông báo Hán Nôm học 2002, tr.351-359

0 nhận xét:

Đăng nhận xét