CÔNG TÁC BIÊN DỊCH VÀ NGHIÊN CỨU TRUYỆN THƠ NÔM TÀY: ĐÔI NÉT VỀ THÀNH TỰU VÀ TRIỂN VỌNG
CÔNG TÁC BIÊN DỊCH VÀ NGHIÊN CỨU TRUYỆN THƠ NÔM TÀY: ĐÔI NÉT VỀ THÀNH TỰU VÀ TRIỂN VỌNG
HOÀNG PHƯƠNG MAI
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Truyện
thơ Nôm Tày là một trong những mảng thể loại văn học thành văn tiêu
biểu của đồng bào dân tộc Tày với số lượng tác phẩm khá phong phú, nội
dung phản ánh muôn mặt đời sống xã hội của đồng bào dân tộc Tày. Công
tác biên dịch và nghiên cứu hệ thống các tác phẩm truyện thơ Tày đã được
giới học thuật quan tâm và tiến hành từ những thập niên nửa cuối thế kỷ
trước. Dưới đây chúng tôi xin điểm lại những thành tựu nổi bật trong
công tác biên dịch và nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày trong thời gian qua:
I. Những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực biên dịch và nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày:
I.1. Về lĩnh vực biên dịch:
- Năm 1961, Nxb. Văn học đã cho ra đời bộ sách Truyện thơ Tày - Nùng, tập 1 do nhiều tác giả biên dịch, Nông Quốc Chấn giới thiệu. Tập sách này đã biên dịch 4 truyện thơ sau: Nam Kim - Thị Đan, Lưu Đài - Hán Xuân, Kim Quế, Truyện Chim Sáo.
- Năm 1961, Ty văn hóa Cao Bằng xuất bản cuốn Nam Kim - Thị Đan (truyện thơ Tày) do Vũ Khoanh sưu tầm, Hoàng Hưng hiệu đính(1), đã biên dịch và giới thiệu truyện thơ Nam Kim - Thị Đan.
- Năm 1962, trong Hợp tuyển thơ văn Việt Nam. Tập 6: Văn học dân tộc thiểu số, Quyển
1 do nhóm tác giả Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Mạc Phi biên soạn,
Nxb. Văn hóa, có tìm hiểu về các loại văn học các dân tộc thiểu số.
Riêng về truyện thơ dân tộc Tày - Nùng giới thiệu một truyện thơ: Nam Kim - Thị Đan (do Nông Minh Châu dịch và chú thích, ở đây chỉ trích giới thiệu 292 câu dịch thơ tiếng Việt)
- Năm 1963, Nxb. Dân tộc Việt Bắc xuất bản cuốn sách Đính Quân. Truyện thơ Tày - Nùng.
- Tiếp theo Tập 1 của Truyện thơ Tày - Nùng ra đời năm 1961, Nxb. Văn học, năm 1964, tiếp tục giới thiệu tới độc giả tập 2 của bộ Truyện thơ Tày - Nùng. Tập sách này biên dịch và giới thiệu 4 truyện thơ sau: Đính Quân (Hán Đính), Quảng Tân - Ngọc Lương, Trần Châu (Tần Chu) và Vượt biển (Khảm hải)
(mỗi truyện thơ đều có phần giới thiệu nội dung khoảng 1 trang, sau đó
đến phần dịch thơ tiếng Việt, không có phần phiên âm tiếng Tày).
- Cũng trong năm 1964, Nxb. Văn học còn xuất bản bộ Truyện thơ Tày - Nùng, tập 1, bản dịch của Hoàng An Định, Hoàng Quyết hiệu đính và giới thiệu.
- Năm 1976, tác phẩm Nam Kim - Thị Đan, Chiêu Đức - Kim Nữ của hai học giả Hoàng An Định và Quốc Tuấn biên dịch, giới thiệu hai truyện thơ Nam Kim - Thị Đan và Chiêu Đức - Kim Nữ.
- Năm 1978, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội xuất bản tập sách Tần Chu: Truyện thơ Tày, Nùng do Cần Slao Slec chú thích, Nông Phúc Tước giới thiệu.
- Năm 1981, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập 6 Quyển 2: Văn học dân tộc ít người
(in lần 2) do nhóm Nông Quốc Chấn, Hoàng Thao, Hà Văn Thơ biên soạn,
Nxb. Văn học xuất bản, đã sưu tầm và dịch một số truyện thơ sau: Truyện Chim Sáo (Hoàng An Định sưu tầm và dịch), Nam Kim - Thị Đan (Nông Viết Toại sưu tầm và dịch), Lưu Đài - Hán Xuân
(Hoàng An Định sưu tầm và dịch), Quảng Tân - Ngọc Lương do Nông Minh
Châu sưu tầm và dịch, Trần Châu do Hoàng Quyết sưu tầm và dịch. Nhưng
các truyện thơ nêu trên chỉ có phần dịch thơ Tiếng Việt.
- Năm 1983, Sở văn hóa thông tin Bắc Thái tỉnh Bắc Thái giới thiệu cuốn sách Tam Mậu Ngọ: Truyện thơ Tày
do Bế Sĩ Uông và Ma Trường Nguyên sưu tầm, phiên âm và dịch chú. Trong
tác phẩm này các dịch giả đã cung cấp phần dịch thơ tiếng Việt của
truyện Tam Mậu Ngọ dài 1206 câu.
- Năm 1989, Hội Văn học nghệ thuật Bắc Thái tỉnh Bắc Thái xuất bản tác phẩm Lương Nhân. Truyện thơ Tày - Nùng, giới thiệu truyện thơ Lương Nhân (chưa được đọc)
- Năm 1992, Nhà xuất bản KHXH xuất bản bộ sách Tuyển tập văn học các dân tộc ít người ở Việt Nam do Đặng Nghiêm Vạn làm chủ biên. Bộ sách gồm 4 quyển, trong đó Quyển 3 giới thiệu 3 truyện thơ Nôm Tày: Đính Quân (2075 câu, Lục Văn Pảo dịch), Nam Kim - Thị Đan (578 câu, tuyển lại từ Truyện thơ Tày - Nùng tập 1 do Nxb. Văn học xuất bản năm 1964), Lưu Đài - Hán Xuân.
- Năm 1994, Nxb. Văn hóa dân tộc cho ra đời tác phẩm Nam Kim - Thị Đan: Truyện thơ Nôm dân tộc Tày
do Hoàng Quyết sưu tầm, dịch và chú thích. Đây là cuốn sách khổ nhỏ,
nội dung gồm 4 phần chính: lời giới thiệu nội dung câu chuyện Nam Kim
Thị Đan bằng tiếng Việt, phần dịch thơ tiếng Việt dài 710 câu, lời giới
thiệu cốt chuyện bằng tiếng Tày và phần phiên âm truyện thơ bằng tiếng
Tày.
- Cũng năm 2004, Truyện thơ Nôm Tày
do Hoàng Quyết, Hoàng Triều Ân sưu tầm, dịch, chú thích, giới thiệu,
Nxb. Văn hóa dân tộc xuất bản. Tập sách này giới thiệu 5 truyện thơ sau:
Nhân Lăng, Bjoóc Lả, Chiêu Đức, Lý Thế Khanh và Nho Hương (mỗi truyện
thơ đều có phần dịch thơ tiếng Việt và phần phiên âm tiếng Tày)
- Tiếp đến là Hợp tuyển văn học dân gian các dân tộc. Tập 1: Tày - Nùng - Sán Cháy,
Đặng Văn Lung, Trần Thị An biên soạn, do Nxb. Văn hóa dân tộc xuất bản
năm 1995. Trong bộ hợp tuyển này, hai tác giả trích giới thiệu một số
truyện thơ sau: Truyện Chim Sáo (Hoàng An Định sưu tầm và dịch), Quảng Tân - Ngọc Lương (Nông Minh Châu sưu tầm và dịch), Nam Kim - Thị Đan (Nông Viết Toại sưu tầm và dịch), Nho Hương (Hoàng Quyết, Triều Ân dịch và chú thích), Nhân Lăng (Hoàng Quyết - Triều Ân dịch và chú thích), Lý Thế Khanh (Hoàng Quyết - Triều Ân dịch và chú thích), Chiêu Đức (Hoàng Quyết - Triều Ân dịch, giới thiệu), Bjoóc Lạ (Hoàng Tuấn Nam dịch, Triều Ân chú thích).
- Cũng trong năm 1995, Truyện thơ Nôm Tày
(2 tập) do Triều Ân, Hoàng Thị Cành, Hoàng An Định và Hoàng Quyết biên
dịch đã đạt Giải ba công trình nghiên cứu năm 1995 của Hội Văn nghệ dân
gian Việt Nam.
- Năm 2000, Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản bộ sách Tổng tập văn học Việt Nam (trọn bộ 42 tập). Trong đó, Tập 39
do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên đã giới thiệu hai truyện thơ dân tộc Tày:
Pú Lương Quân (chỉ tóm tắt nội dung), và Chín chúa tranh vua (chỉ có
phần dịch thơ Tiếng Việt). Tập 40 do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên giới thiệu 3 truyện thơ Nôm Tày: Đính Quân (2075 câu, chỉ dịch thơ tiếng Việt, tuyển truyện đã được Nông Minh Châu dịch và in trong Truyện thơ Tày - Nùng, tập II, Nxb. Văn học, 1964), Nam Kim - Thị Đan (578 câu, chỉ dịch thơ tiếng Việt, tuyển lại từ Truyện thơ Tày - Nùng tập 1 do Nông Viết Toại, Hà Vũ Khoanh, Hoàng Rạng dịch và giới thiệu, Nxb. Văn học, H. 1964); Lưu Đài - Hán Xuân (trích 1056 câu, dựa trên bản dịch của Hoàng An Định và Hoàng Quyết in năm 1964).
- Năm 2003, tác phẩm Chữ Nôm Tày và truyện thơ do Triều Ân chủ biên, Trung tâm nghiên cứu Quốc học xuất bản đã biên dịch 5 truyện thơ sau: Truyện Nàng Kim, Truyện Nàng Hán, Truyện Nàng Quyển, Truyện Nàng Ngọc Long, Truyện Nàng Ngọc Dong (mỗi truyện đều giới thiệu bản dịch thơ tiếng Việt, riêng Truyện Nàng Ngọc Dong có cả phần chữ viết tiếng Tày và bản phiên âm tiếng Tày).
- Năm 2004, trong tác phẩm Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại do Trung tâm nghiên cứu Quốc học in, tác giả Triều Ân đã dịch 3 tác phẩm: Hồng nhan tứ quý, Khảm hải, Nam Kim - Thị Đan.
- Cũng trong năm 2004, Trung tâm Khoa học xã hội đã cho ra đời bộ Tinh tuyển văn học Việt Nam. Bộ sách gồm 8 tập, trong đó Tập 2
dành riêng để giới thiệu về nền văn học của các dân tộc thiểu số Việt
Nam. Trong đó, Quyển 1 thuộc tập 2 có giới thiệu hai truyện thơ dân tộc
Tày: Truyện Chim Sáo (Hoàng An Định sưu tầm và dịch, tổng cộng 373 câu, ở đây trích dịch 219 câu) và Truyện Nam Kim - Thị Đan (Nông Viết Toại sưu tầm và dịch, ở đây trích dịch 141 câu)
- Trong Đẻ đất đẻ nước: trường ca, truyện thơ các dân tộc Mường Tày Nùng... trích giới thiệu 4 truyện thơ: Chim Sáo do Hoàng An Định sưu tầm và dịch, Nam Kim Thị Đan do Hoàng An Định sưu tầm và dịch, Quảng Tân Ngọc Lương do Nông Minh Châu sưu tầm và dịch, Trần Châu do Hoàng Quyết sưu tầm và dịch.
- Năm 2005, Hà Thị Bình dịch và giới thiệu cuốn Tử thư - Văn Thậy do Nhà xuất bản Khoa học xã hội xuất bản. Cuốn sách giới thiệu truyện thơ Tử Thư - Văn Thậy dài 1451 câu, có phiên âm tiếng Tày và dịch thơ tiếng Việt.
- Viện Nghiên cứu Văn hóa: Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, Tập 22: Truyện thơ. Nxb. KHXH, H. 2008. Phiên dịch và giới thiệu 3 truyện thơ Nôm Tày sau: Toẹn Thị Đan (Truyện Thị Đan):
gồm 702 câu, có các phần: tóm tắt nội dung 2 trang do Triều Ân tóm tắt,
bản chữ Nôm Tày, phiên âm tiếng Tày, dịch thơ tiếng Việt đã được giới
thiệu trong Ba áng thơ Nôm Tày và thể loại. Triều Ân, Nxb. Văn học, H. 2004. Chiêu Đức,
gồm 2551 câu thơ, có các phần: nội dung câu chuyện (do Hoàng Quyết và
Triều Ân tóm tắt), phiên âm tiếng Tày, dịch thơ tiếng Việt. Nàng Kim, gồm 1866 câu thơ, có các phần sau: nội dung câu chuyện (Hà Mai Hương tóm tắt), phiên âm tiếng Tày, dịch thơ tiếng Việt.
I.2. Về lĩnh vực nghiên cứu, phê bình và khai thác truyện thơ Nôm Tày - Nùng:
Các công trình được in thành sách:
- Năm 1984 Lã Văn Lô - Hà Văn Thư. Văn hóa Tày Nùng. Nxb. Văn hóa, H. 1984. Ở chương 3: Văn học nghệ thuật truyền thống, có phần viết về Truyện thơ Nôm khuyết danh(2), học giả Hà Văn Thư đã liệt kê tên một số truyện thơ Nôm Tày - Nùng khuyết danh như: Slam
Péc - Anh Tài, Nam Kim - Thị Đan, Kim Quế, Chim sáo, Khảm hải, Lưu Đài -
Hán Xuân, Trần Chu - Quyển Vương, Quảng Tân - Ngọc Lương, Lương Quân -
Bjoóc Rầm... và một số truyện cổ dân gian của người Việt được dịch ra thơ Tày như: Phạm Tải - Ngọc Hoa, Tống Trân - Cúc Hoa.
Tiếp đó, tác giả đi đến giới thiệu nội dung một số truyện thơ Nôm
khuyết danh Tày - Nùng theo 2 loại: Loại thứ nhất bao gồm các truyện có
kết cấu đơn giản, đậm đà tính dân gian, thường mượn những cốt truyện dân
gian như: Slam Péc - Anh Tài, Nam Kim - Thị Đan. Loại thứ hai gồm những truyện có kết cấu phức tạp hơn, trình bày có tình tiết hơn, mang tính tiểu thuyết hơn, như: Lưu Đài - Hán Xuân, Tần Chu - Quyển Vương...
-
Một trong những công trình tiêu biểu nhất, mang tính lý luận cao trong
lĩnh vực nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày là Luận án PTS. Khoa học ngữ văn
của Lê Trường Phát bảo vệ thành công năm 1997 với đề tài: Đặc điểm thi pháp truyện thơ các dân tộc thiểu số.
Luận án gồm 3 chương, tập trung nghiên cứu truyện thơ các dân tộc thiểu
số ở Việt Nam trong bối cảnh truyện thơ các nước Đông Nam Á, từ đó tìm
hiểu kết cấu cốt truyện và nhân vật trong truyện thơ các dân tộc thiểu
số, tìm hiểu một số phương diện ngôn ngữ sử dụng trong truyện thơ các
dân tộc thiểu số Việt Nam.
- Năm 2000, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia xuất bản bộ Tổng tập văn học Việt Nam,
trọn bộ 42 tập, có chỉnh lý và bổ sung, trong đó Tập 39 do nhóm: Chủ
biên Đặng Nghiêm Vạn; sưu tầm, biên soạn: Chu Thái Sơn, Nguyễn Hữu Thấu,
Lục Văn Pảo, có giới thiệu 2 tác phẩm của dân tộc Tày là: Pú Lương Quân (chỉ có phần tóm tắt nội dung, tuyển theo bản dịch kể của hai ông Lã Văn Lô và Lê Bình Sự trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 65/1964) tr.29-38, truyền thuyết Chín chúa tranh vua tr.39-90, 1372 câu (chỉ có phần dịch thơ tiếng Việt, Lã Văn Lô dịch, đã giới thiệu trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 5 và 6 /1963).
- Trong Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam(3), Phan Đăng Nhật xếp truyện thơ vào loại hình văn học hát(4).
Ông căn cứ vào nội dung truyện thơ các dân tộc khác nhau đã được sưu
tầm và giới thiệu (trong số đó, truyện thơ Nôm dân tộc Tày Nùng được ông
trích dẫn có: Nam Kim - Thị Đan, Kim Quế, Quảng Tân - Ngọc Lương, Vượt biển, Chim sáo, Tần Chu, Lưu Đài Hán Xuân, Đính Quân)
để chia truyện thơ các dân tộc ít người thành ba loại đề tài: truyện
thơ về tình yêu, về sự nghèo khổ và về chính nghĩa. Qua việc phân tích
cốt truyện và tìm hiểu hệ thống các nhân vật chính trong các tác phẩm
đó, tác giả đi đến kết luận: “Truyện thơ bắt nguồn từ dân ca và truyện
kể, đã phát huy những đặc điểm về nghệ thuật của các loại hình này, do
đó vừa có khả năng diễn tả mọi tình cảm tinh vi, phức tạp, lại vừa hấp
dẫn người nghe bằng phương pháp kể truyện lý thú... Giữa truyện thơ miền
núi và truyện thơ Nôm miền xuôi có những nét tương đồng về các mặt: tư
tưởng chủ đạo, xây dựng nhân vật, kết cấu tác phẩm và các thủ pháp nghệ
thuật thường dùng.... Truyện thơ đánh dấu một bước phát triển cao của
văn học cổ truyền các dân tộc thiểu số. Ở loại hình này (loại hình văn
học hát - NV) các dân tộc đã đạt được những thành tựu xuất sắc về chất
lượng cũng như về số lượng. Truyện thơ đã tập hợp tinh hoa các loại, thể
văn học, đồng thời cũng ảnh hưởng sâu sắc đến các loại, thể phát triển
sau nó. Gần đây, một số bài thơ thể kể chuyện, các truyện thơ hiện đại,
các thể truyện ký bằng văn xuôi của các tác giả dân tộc ít hoặc nhiều
đều đã tiếp thu và phát huy những tinh hoa trong truyện thơ của dân tộc
mình”(5).
- Võ Quang Nhơn trong Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam(6) đã dành hẳn Chương bảy: Truyện thơ một dấu nối giữa văn học truyền miệng và văn học dân gian thành văn
để đưa ra những nhận định của mình về truyện thơ các dân tộc ít người
như: dân tộc Tày Nùng, dân tộc Thái, dân tộc Mường... Trong bài viết
này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu quan điểm của tác giả về truyện thơ Nôm
dân tộc Tày Nùng. Võ Quang Nhơn đã căn cứ vào phương thức diễn xướng,
lưu truyền và nguồn gốc kế thừa của truyện thơ các dân tộc để chia loại
hình truyện thơ thành 4 nhóm sau:
- Nhóm truyện thơ gắn với sinh hoạt nghi lễ dân gian, tiêu biểu như: Khảm hải (Vượt biển).
- Nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống tự sự của truyện cổ dân gian các dân tộc như: Chim sáo, Kim Quế.
- Nhóm truyện thơ kế thừa truyền thống trữ tình của thơ ca dân gian các dân tộc như: Nam Kim - Thị Đan.
- Nhóm truyện thơ thiên về thuyết giáo đạo đức của truyện thơ Nôm Kinh như: Lưu Đài - Hán Xuân, Trần Châu - Quyển Vương, Quảng Tân - Ngọc Lương.
Bằng
việc phân tích các đặc điểm thể loại và việc khái quát nội dung một số
truyện thơ khác nhau của các dân tộc ít người (với mỗi một nhóm truyện
thơ, tác giả đều thâu tóm được những mô típ đề tài, nêu lên những tình
tiết cơ bản tiêu biểu của loại truyện thơ đó), từ đó tác giả đi đến kết
luận: “Truyện thơ một mặt kế thừa và phát triển truyền thống tự sự và
trữ tình của truyện cổ và thơ ca dân gian, một mặt tiếp thu ảnh hưởng
của nền văn hóa bác học và đặc biệt là của văn học bác học Việt. Từ
những sự kế thừa và chịu ảnh hưởng về nhiều mặt đó, các nghệ nhân dân
gian và các trí thức dân tộc đã sáng tạo nên một thể loại văn học dân
gian mới, với nội dung bề thế hơn về dung lượng, với nghệ thuật được
trau chuốt và hoàn thiện hơn. Ở một số dân tộc ít người, thể loại truyện
thơ đánh dấu bước phát triển mới của văn học dân gian. Nó phản ảnh quá
trình vận động, biến chuyển của văn học dân gian các dân tộc ít người,
tiến tới tiếp cận và đi dần vào quỹ đạo của nền văn học thành văn của cả
cộng đồng dân tộc Việt Nam”(7).
-
Năm 2002, sau quá trình 10 năm khảo sát và nghiên cứu một sách công phu
và đầy tâm huyết, Vũ Anh Tuấn đã hoàn thành chuyên luận khoa học với đề
tài Truyện thơ Tày. Nguồn gốc - quá trình phát triển và thi pháp thể loại.
Đây là một công trình nghiên cứu một cách hệ thống về nguồn gốc thể
loại truyện thơ Nôm Tày dựa trên cơ sở hiện thực xã hội, nguồn gốc nội
sinh và ngoại sinh trong quá trình phát triển và tiếp biến của nền văn
hóa tộc người. Từ đó, tác giả xác lập quá trình phát triển của truyện
thơ Tày, nêu lên giả thiết về lược đồ của quá trình phát triển đó. Sau
cùng, tác giả phân tích thi pháp của thể loại truyện thơ Tày qua những
đặc điểm thi pháp cấu trúc, nhân vật và lời văn nghệ thuật trong truyện
thơ Tày. Công trình này được khá nhiều học giả đánh giá cao và ghi nhận
những đóng góp lớn lao của Vũ Anh Tuấn đối với nền văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam.
- Năm 2003, trong Chữ Nôm Tày và truyện thơ
do Triều Ân chủ biên, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản, các tác
giả đã bước đầu tìm hiểu thời điểm xuất hiện truyện thơ Nôm Tày và tiến
hành phân loại nguồn gốc truyện thơ Nôm Tày.
- Năm 2005, trong cuốn sách Tử Thư - Văn Thậy
do Hà Thị Bình dịch và giới thiệu, Nxb. KHXH xuất bản, bên cạnh việc
giới thiệu phần phiên âm và dịch thơ truyện Tử Thư - Văn Thậy, tác giả
đã tiến hành phân tích một số vần đề về nội dung và một số yếu tố nghệ
thuật của loại truyện thơ này.
-
Trong 2 năm vừa qua, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã tiến hành tổ chức biên
dịch một số truyện thơ Nôm Tày với cách thức khá hệ thống và mang tính
khoa học khi công bố bản dịch truyện thơ Nôm Tày kèm theo nguyên bản chữ
viết Tày, phiên âm tiếng Tày và chú thích rõ ràng, chi tiết nhằm giúp
cho giới học thuật và độc giả quan tâm có thể dễ dàng hơn trong việc
tiếp cận nguyên bản các truyện thơ Nôm Tày.
Các bài viết đăng trên các tạp chí
- Bài viết Đọc sách Nôm Tày Tần Chu của tác giả Hiền Lương đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 1/1989.
- Bài viết Về tác phẩm truyện thơ Tày - Nùng Lưu Đài - Hán Xuân(8) của Nguyễn Minh Tuân bước đầu giới thiệu tác phẩm Lưu Đài - Hán Xuân
thông qua việc tìm hiểu đôi nét về nội dung cơ bản của tác phẩm và một
vài đặc điểm của việc sử dụng chữ Nôm Tày trong văn bản. Trong đó, ở
phần nội dung của tác phẩm, tác giả bài viết tiến hành khảo cứu ba văn
bản Lưu Đài - Hán Xuân mang ký hiệu: VNv.685, VNv.672 và VNv.607
hiện đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, đồng thời nêu khái quát
nội dung tác phẩm. Ở phần tiếp theo của bài viết, tác giả nêu một số
loại chữ Nôm Tày được sử dụng trong tác phẩm này như: chữ Nôm Tày dùng
nguyên chữ và âm Hán Việt, nhưng không dùng đến nghĩa của chữ; chữ Nôm
Tày dùng nguyên chữ, âm và nghĩa Hán Việt; chữ Nôm Tày dùng nguyên chữ
Hán đọc chệch âm Hán Việt, không dùng theo nghĩa của chữ; chữ Nôm Tày
sáng tạo; chữ Nôm Tày dùng nguyên chữ Nôm Việt cả ba mặt chữ - âm -
nghĩa; chữ Nôm Tày dùng nguyên chữ Nôm Việt có bị biến đổi về âm đọc...
- Cũng tương tự như thế, bài viết Tìm hiểu đôi nét về truyện thơ Nôm Tày - Nùng Toọng Tương của tác giả Trần Thị Thu Hường đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 3/2004 lại đi sâu tìm hiểu văn bản truyện thơ Nôm Tày Toọng Tương
ký hiệu VNv.605 lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm trên các phương
diện: tác giả, văn bản tác phẩm, thể loại, nội dung và giá trị của tác
phẩm.
Trên đây là hai bài viết mang tính khảo cứu khá kỹ về hai tác phẩm truyện thơ Nôm Tày - Nùng là Toọng Tương và Lưu Đài - Hán Xuân.
- Với bài viết Tìm hiểu yếu tố đạo giáo trong một số truyện thơ Nôm Tày - Nùng đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 1/2009, Nguyễn Minh Tuân sơ lược đề cập đến các yếu tố Đạo giáo trong một số
truyện thơ Nôm Tày được thể hiện trên ba phương diện: cấu trúc tác
phẩm, cách thức xây dựng nhân vật và không gian hoạt động của các nhân
vật trong tác phẩm. Một vài tình tiết tác phẩm và chân dung nhân vật
được tác giả bải viết dùng để minh họa cho các luận điểm của mình được
lựa chọn từ các tác phẩm truyện thơ sau: Nhân Lăng, Kim Quế, Chiêu Đức, Lưu Đài Hán Xuân, Đính Quân, Quảng Tân Ngọc Lương, Tần Chu.
Về cấu trúc tác phẩm truyện thơ Nôm Tày - Nùng, Nguyễn Minh Tuân cho
rằng: “Điều dễ nhận thấy nhất ở các tác phẩm là muốn đưa người đọc vào
hoàn cảnh cụ thể của sự việc theo trình tự nhất định. Cụ thể là: người
sống trong nghịch cảnh cảm thấy thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần.
Nhờ vào ngoại lực để đạt nguyện vọng. Sau một lịch trình gian khổ,
nguyện vọng được thỏa mãn tối đa, v.v...”. Về cách thức xây dựng nhân
vật, tác giả bài viết cho rằng: “Một số truyện thơ Nôm Tày - Nùng thể
hiện khá rõ nét trong việc
xây dựng hình tượng nhân vật theo Đạo giáo, là: hình tượng hóa - thần
tiên được trần tục hóa, thần tiên hóa - phép thuật cao cường, quan niệm
sống chết - chết đi rồi sống lại theo nguyên hình và chết đi hóa thành
vật khác”. Về không gian hoạt động, tác giả bài viết cho rằng: “Đạo giáo
chia không gian hoạt động của con người làm ba thế giới: trên là tiên,
giữa là người, dưới là quỷ... Các tác giả truyện thơ Nôm Tày - Nùng cũng
có người quan niệm như vậy”.
Trên
đây mới chỉ là những phác họa ban đầu về những thành quả mà giới học
thuật đã đạt được trong công tác biên dịch và nghiên cứu truyện thơ Nôm
Tày trong khoảng thời gian hơn nửa thế kỷ qua. Qua đó có thể thấy truyện
thơ Nôm Tày luôn nhận được sự quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu của nhiều học giả.
II. Đôi nét về triển vọng của công tác biên dịch và khai thác truyện thơ Nôm Tày
Qua
quá trình tìm hiểu và khảo sát mảng thư tịch được sưu tầm về Viện
Nghiên cứu Hán Nôm trong khoảng những thập niên cuối cùng của thế kỷ
trước và một phần trong số hàng ngàn văn bản sưu tầm được trong nhưng
năm gần đây qua một số công trình: Bài viết Giới thiệu tư liệu truyện thơ Nôm Tày hiện đang được lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm của chúng tôi đăng trên Thông báo Hán Nôm học năm 2008; Thư mục sách Hán Nôm các dân tộc thiểu số Việt Nam,
Tập 1, Nxb. KHXH, H.2008, chúng tôi đã bước đầu khảo sát được một phần
đáng kể truyện thơ Nôm Tày hiện đang được lưu giữ tại Thư viện Viện
Nghiên cứu Hán Nôm như sau:
TT
|
Tên truyện thơ
|
Ký hiệu
|
S. trang
|
Niên đại
|
Tình trạng văn bản
|
11
|
Bjoóc Lả
|
ST.1099
|
18
|
Bảo Đại 8
|
Thiếu phần cuối
|
2
|
ST.2169
|
69
|
x
|
Thiếu phần cuối
| |
3
|
ST.2232
|
34
|
Khải Định 8
|
Thiếu phần cuối
| |
42
|
Đính Quân
|
VNv.619
|
74
|
Duy Tân 5
|
Khá đầy đủ
|
5
|
VNv.673
|
66
|
Khải Định 3
|
Khá đầy đủ
| |
6
|
ST.2212
|
64
|
x
|
Thiếu phần cuối
| |
7
|
ST.2215
|
70
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
| |
8
|
ST.2216
|
72
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
| |
9
|
Đình (Đỉnh) Chi
|
ST.2270
|
54
|
Khải Định 3
|
Khá đầy đủ
|
10
|
Hoa Đan (Đơn)
|
ST.2153
|
192
|
x
|
Khá đầy đủ
|
11
|
Kim Quế
|
VNb.165
|
73
|
x
|
Thiếu phần cuối
|
12
|
VNv.603
|
38
|
x
|
Thiếu phần cuối
| |
13
|
VNv.694
|
94
|
Khải Định 10
|
Thiếu phần cuối
| |
14
|
ST.2219
|
116
|
Thành Thái 15
|
Khá đầy đủ
| |
15
|
ST.2263
|
102
|
x
|
Khá đầy đủ
| |
16
|
Kim Sinh
|
ST.2217
|
44
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
|
17
|
Long Tôn
|
VNv.676
|
24
|
x
|
Khá đầy đủ
|
18
|
Lục Sao
|
VNv.676
|
10
|
x
|
Chưa rõ
|
19
|
Lương Quân -Bjoóc Lả
|
VNb.162
|
67
|
Bảo Đại 18
|
Khá đầy đủ
|
20
|
Lương Quân -Ngọc Nữ
|
ST.2209
|
39
|
Kỉ Sửu
|
Khá đầy đủ
|
21
|
ST.2221
|
40
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
| |
22
|
ST.2261
|
73
|
VNDCCH13
|
Khá đầy đủ
| |
23
|
Lưu Bình -Dương Lễ
|
ST.2237
|
58
|
Bảo Đại 5
|
Khá đầy đủ
|
24
|
Lưu Đài - Hán Xuân
|
VNv.607
|
136
|
Bảo Đại 2
|
Khá đầy đủ
|
25
|
VNv.668
|
126
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
| |
26
|
VNv.672
|
176
|
Khải Định 10
|
Khá đầy đủ
| |
27
|
VNv.685
|
114
|
x
|
Thiếu đầu, cuối.
| |
28
|
ST.2241
|
140
|
x
|
Thiếu phần cuối
| |
29
|
ST.2244
|
142
|
Bảo Đại 9
|
Thiếu phần đầu
| |
30
|
ST.2266
|
164
|
x
|
Thiếu phần đầu
| |
31
|
Lưu Tú
|
ST.2233
|
144
|
Bảo Đại 12
|
Thiếu phần đầu
|
32
|
Lưu Tương
|
VNb.161
|
100
|
x
|
Khá đầy đủ
|
33
|
VNb.163
|
76
|
x
|
Khá đầy đủ
| |
34
|
ST.2150
|
24
|
x
|
Thiếu phần cuối
| |
35
|
ST.2242
|
90
|
Duy Tân 7
|
Khá đầy đủ
| |
36
|
Lý Lan
|
ST.1998/38
|
22
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
|
37
|
ST.2277
|
97
|
Bảo Đại 8
|
Thiếu phần cuối
| |
38
|
Lý Lan - Thị Dung
|
ST.2163
|
72
|
Thành Thái 16
|
Khá đầy đủ
|
39
|
Mây Ngần
|
ST.2168
|
64
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
|
40
|
Mẫu Đơn
|
ST.2205
|
67
|
x
|
Thiếu phần đầu
|
41
|
ST.2240
|
62
|
Khải Định 3
|
Khá đầy đủ
| |
42
|
Minh Nga - Ngọc Sinh
|
ST.2224
|
34
|
Khải Định 6
|
Khá đầy đủ
|
43
|
Nam Kim - Thị Đan
|
VNv.604
|
37
|
x
|
Thiếu phần đầu
|
44
|
ST.2157
|
67
|
x
|
Thiếu phần cuối
| |
45
|
ST.2207
|
47
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
| |
46
|
ST.2274
|
27
|
x
|
Thiếu phần đầu
| |
47
|
ST.2275
|
24
|
VNDCCH 2
|
Thiếu phần cuối
| |
48
|
ST.2276
|
36
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
| |
49
|
Nhân Hiệu
|
ST.2218
|
201
|
x
|
Thiếu phần cuối
|
50
|
Nhân Lăng
|
ST.2265
| |||
51
|
Nc.505
| ||||
52
|
Phạm Tải - Ngọc Hoa
|
VNb.164
|
38
|
x
|
Thiếu phần cuối
|
53
|
ST.2205
|
48
|
x
|
Khá đầy đủ
| |
54
|
ST.2234
|
47
|
Khải Định 8
|
Thiếu phần đầu
| |
55
|
ST.2243
|
67
|
Khải Định 9
|
Khá đầy đủ
| |
56
|
Ngọc Hoa
|
ST.2225
|
38
|
Bảo Đại 5
|
Thiếu phần đầu
|
57
|
Quảng Tân - Ngọc Lương
|
VNv.673
|
59
|
Khải Định 2
|
Khá đầy đủ
|
58
|
VNv.676
|
52
|
x
|
Khá đầy đủ
| |
59
|
ST.1099
|
42
|
Bảo Đại 8
|
Thiếu phần đầu
| |
60
|
ST.2159
|
22
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
| |
61
|
ST.2229
|
61
|
Khải Định 9
|
Thiếu phần cuối
| |
62
|
ST.2236
|
72
|
x
|
Khá đầy đủ
| |
63
|
Slam Péc-En Tài
|
ST.5490
| |||
64
|
Tạng Ba
|
ST.2152
|
96
|
x
|
Thiếu phần đầu
|
65
|
Tần Chu
|
VNv.592
|
144
|
Duy Tân 6
|
Khá đầy đủ
|
66
|
VNv.593
|
140
|
x
|
Thiếu phần đầu
| |
67
|
VNv.594
|
156
|
Thành Thái 13
|
Thiếu phần đầu, phần cuối.
| |
68
|
VNv.595
|
194
|
x
|
Thiếu đầu, cuối.
| |
69
|
ST.1998
/83
|
140
|
Khải Định 2
|
Khá đầy đủ
| |
70
|
ST.2231
|
148
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
| |
71
|
ST.2238
|
142
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
| |
72
|
Toọng Tương
|
VNv.605
|
34
|
x
|
Khá đầy đủ
|
73
|
Tống Kim-Từ Thị
|
ST.2162
|
60
|
x
|
Khá đầy đủ
|
74
|
Tống Trân - Cúc Hoa
|
VNv.600
|
144
|
x
|
Thiếu đầu, cuối.
|
75
|
VNv.601
|
144
|
x
|
Thiếu phần đầu
| |
76
|
VNv.602
|
100
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
| |
77
|
VNv.676
|
97
|
Khải Định 7
|
Thiếu phần đầu
| |
78
|
ST.2164
|
76
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
| |
79
|
ST.2172
|
196
|
Thành Thái 18 (đầu)
Bảo Đại 8 (cuối)
|
Khá đầy đủ
| |
80
|
ST.2220
|
52
|
x
|
Khá đầy đủ
| |
81
|
ST.2222
|
61
|
x
|
Thiếu phần đầu
| |
82
|
Truyện đời Hán
|
ST.2277
|
64
|
x
|
Thiếu phần đầu
|
83
|
Trương Hán - Mẫu Đơn
|
ST.2230
|
59
|
x
|
Khá đầy đủ
|
84
|
Tương Anh
|
ST.2159
|
9
|
x
|
Thiếu đầu, cuối
|
Như
vậy, theo số lượng thống kê chưa đầy đủ, chỉ tính riêng trong kho sách
của Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã có hàng trăm văn bản truyện thơ viết bằng
chữ Nôm Tày ghi chép gần 40 truyện thơ Nôm của đồng dân tộc Tày.
Ngoài
ra, theo quan điểm của một số học giả nghiên cứu và biên dịch truyện
thơ Nôm Tày, số lượng truyện thơ Nôm Tày là những con số lớn hơn nữa và
chưa có sự thống nhất: 47 (Lục Văn Pảo), 67 (Triều Ân và Lục Văn Pảo),
trên dưới 50 tác phẩm (Tổng tập văn học dân gian Việt Nam, tập 22, tr111)...
Qua
đó chúng ta có thể phần nào hình dung được rằng, công tác biên dịch và
nghiên cứu truyện thơ Nôm Tày đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng tự
hào, song so với kho tàng truyện thơ Nôm Tày phong phú về số lượng, đa
dạng về nội dung thì số lượng truyện thơ Nôm Tày từng được biên dịch mới
chỉ chiếm khoảng chưa đầy 1/3 số lượng truyện thơ hiện có. Bên cạnh đó,
một phần không nhỏ những truyện thơ đã được biên dịch và công bố có sự
lặp lại về số lần xuất bản, số lần tuyển dịch hoặc trích dịch, do đó một
bộ phận không nhỏ truyện thơ Nôm Tày vẫn còn trong tình trạng nguyên
bản, chưa được biên dịch và quan tâm nghiên cứu khai thác. Thêm vào đó,
phần lớn các bản dịch truyện thơ Nôm Tày thường chỉ cung cấp bản dịch
thơ tiếng Việt, một số còn lại được cung cấp thêm cả bản phiên âm tiếng
Tày, nhưng những bản in kèm cả nguyên bản chữ viết Nôm Tày là rất ít,
trong đó tiêu biểu phải kể đến công trình Tổng tập truyện thơ Nôm các dân tộc thiểu số Việt Nam
do Viện Nghiên cứu Hán Nôm tổ chức biên dịch, Nxb. KHXH xuất bản (đã
xuất bản được 8 tập). Điều đó phần nào hạn chế giới nghiên cứu tiếp cận
một cách đầy đủ với nguồn tư liệu văn học phong phú của đồng bào Tày bởi
sự tồn tại của khoảng cách nhất định từ nguyên bản tiếng Tày đến bản
dịch tiếng Việt. Cũng vì thế, việc nghiên cứu nguồn gốc hình thành, thời
điểm hình thành, nội dung phản ánh, giá trị nghệ thuật... của truyện
thơ Nôm Tày phần nào chưa thể phản ánh hết giá trị vốn có của truyện thơ
Nôm Tày.
Do
đó, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra trước những nhà biên dịch và nghiên cứu
truyện thơ Nôm Tày là cần tiến hành biên dịch và nghiên cứu, khai thác
kho tàng truyện thơ Nôm Tày một cách khẩn trương hơn, có tính hệ thống
hơn, khoa học hơn nhằm khai thác được nguồn di sản phong phú và đa dạng
không chỉ của riêng đồng bào dân tộc Tày mà của cả nền văn học dân gian
thời trung đại Việt Nam.
Chú thích:
(1) Dẫn theo Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam của Phan Đăng Nhật, Nxb. Văn hóa, H. 1981, tr.247.
(2) Lã Văn Lô - Hà Văn Thư. Văn hóa Tày - Nùng. Nxb. Văn hóa, H. 1984, tr.94.
(3) Phan Đăng Nhật: Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nxb. Văn hóa, H. 1981.
(4)
Chúng ta xếp vào truyện thơ những tác phẩm văn vần, dài hơi, tổng hợp,
vừa có tính chất tự sự vừa có tính chất trữ tình nhưng phần lớn là tự
sự, năm trong các bộ phận văn học dân gian mà các dân tộc gọi chung là
gầu hay lù chạ (Mèo), khắp (Thái), xướng (Mường)... Ở một số dân tộc
Thái, Tày... truyện thơ đó được ghi bằng chữ viết cổ, việc ghi chép này
chỉ có mục đích hỗ trợ cho việc lưu truyền bằng hát trong các sinh hoạt
diễn xướng văn nghệ dân gian, và hình thức truyền miệng này là chủ yếu.
(5) Phan Đăng Nhật: Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Nxb. Văn hóa, H. 1981, sđd, tr.209
(6) Võ Quang Nhơn: Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam. Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, H. 1983.
(7) Võ Quang Nhơn: Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam. Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp. H. 1983, tr.450.
(8) Nguyễn Minh Tuân: Về tác phẩm truyện thơ Tày - Nùng Lưu Đài Hán Xuân. Tạp chí Hán Nôm số 3/2004./.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét