THÊM MỘT TÁC PHẨM ĐƯỢC VIẾT BẰNG CHỮ NÔM TÀY - NÙNG
THÊM MỘT TÁC PHẨM ĐƯỢC VIẾT BẰNG
CHỮ NÔM TÀY - NÙNG
NGUYỄN MINH TUÂN
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Cũng
như dân tộc người Kinh, dân tộc Tày Nùng chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ văn
hóa Hán. Do đó, việc học kinh sử Trung Quốc là việc cần thiết đối với
các nhà Nho xưa. Với người Tày Nùng, trong di sản văn hóa thành văn được
viết bằng chữ Nôm, ngoài mảng thư tịch về hát sli, lượn, truyện thơ, văn khấn v.v. còn
có loại hình truyện thơ Nôm thất ngôn trường thiên về lịch sử tiền Hán
(Trung Quốc) mà lâu nay rất ít gặp. Mảng thư tịch này rất hữu ích cho
việc tìm hiểu tri thức thực tiễn của người Tày Nùng xưa. Dưới đây xin
giới thiệu loại hình trên qua một văn bản mà chúng tôi vừa mới sưu tầm
được ở Cao Bằng để bạn đọc quan tâm cùng tham khảo.
I. Vài đặc điểm văn bản:
1. Tên sách: Viết bằng chữ Hán 前 漢 冊 古 昔 流 傳 記đọc theo âm Tày Nùng: Tiền Hán séc cổ tích lưu truyền ký.
Tên người sao chép: 黃 文 造Hoàng Văn Tạo.
Dòng niên đại ghi rõ: Bảo Đại thập lục niên tuế thứ Tân Tỵ bát nguyệt sơ nhất nhật thừa sao nhất quyển (Thừa sao ngày mồng một tháng 8 năm Tân Tỵ, triều vua Bảo Đại thứ 16 - 1941).
2.
Sách gồm 50 tờ đôi đóng theo lối truyền thống. Bìa phất nước cậy. Giấy
bản tự chế, màu vàng ngả xám. Khổ rộng 28x16cm. Chữ viết chân phương.
II. Về nội dung:
Sách
gồm 41 đoạn. Đoạn một dài 23 câu; đoạn hai dài 15 câu; đoạn 3 dài 28
câu; đoạn bốn dài 35 câu; đoạn năm dài 19 câu; đoạn sáu 14 câu; đoạn bẩy
134 câu; đoạn tám 23 câu; đoạn chín 21 câu; đoạn mười 22 câu; đoạn mười
một 39 câu; đoạn mười hai 22 câu; đoạn mười ba 37 câu; đoạn mười bốn 19
câu; đoạn mười lăm 96 câu; đoạn mười sáu 33 câu; đoạn mười bẩy 72 câu;
đoạn mười tám 16 câu; đoạn mười chín 87 câu; đoạn hai mươi 11 câu; đoạn
hai mươi mốt 62 câu; đoạn hai mươi hai 37 câu; đoạn hai mươi ba 24 câu;
đoạn hai mươi tư 27 câu; đoạn hai mươi lăm 73 câu; đoạn hai mươi sáu 69
câu; đoạn hai mươi bẩy 21 câu; đoạn hai mươi tám 42 câu; đoạn hai mươi
chín 102 câu; đoạn ba mươi 60 câu; đoạn ba mươi mốt 36 câu; đoạn ba mươi
hai 48 câu; đoạn ba mươi ba 24 câu; đoạn ba mươi tư 19 câu; đoạn ba
mươi lăm 207 câu; đoạn ba mươi sáu 14 câu; đoạn ba mươi bẩy 26 câu; đoạn
ba mươi tám 12 câu; đoạn ba mươi chín 174 câu; đoạn bốn mươi 56 câu;
đoạn bốn mươi mốt 4 câu.
Nội
dung kể về truyện từ khi nhà Hán gây dựng cơ đồ đến khi kết thúc một
vương triều tiền Hán như đã biết. Nhưng nếu như chỉ có vậy thì chẳng có
gì đáng nói. Điều đáng quan tâm ở đây là người Tày Nùng đã dựa trên lịch
sử được viết bằng văn xuôi của Trung Quốc, bằng ngôn ngữ và chữ viết
của mình họ đã xây dựng được một tác phẩm theo một cách mới, bổ sung,
lược bỏ, biến đổi thành những câu thơ Nôm thể thất ngôn trường thiên
giúp cho người đọc dễ đọc, dễ hiểu, mang đậm nét văn hóa Tày.
Đoạn nảy cạ Thủy Hoàng Tần vương,
Cậy giàu mì, slang hăn các nước,
...........
Tổ nhằng pót kết bạn đuổi tiên.
Cừn vằn mong kết duyên thần nự,
Pắt chư hầu các xứ lập cung...
(Đoạn này nói vua Tần Thủy Hoàng,
Cậy giàu có, sang hơn các nước,
..........
Vua những muốn kết bạn với tiên,
Ngày đêm mong kết duyên thần nữ,
Bắt chư hầu các nước lập cung...
Như
vậy, qua tác phẩm cho thấy người Tày Nùng ngoài việc đồng áng, lên
nương làm rẫy ra họ còn rất chăm chỉ học tập không chỉ về lời sli hay
truyện cổ... mà còn cả về những truyện lịch sử nữa. Có lẽ cũng chính vì
điều này mà trong các tác phẩm truyện thơ Nôm Tày hay được dùng nhiều
điển cố Trung Quốc chăng ?
Dưới đây là bài tựa của sách:

Phiên âm:
Phiên âm:
Oằn vắng dú Nam cung slon sléc.
Vằn lưu slư cổ tích sử kinh,
Lưu thị mì chiến tranh Tần Hạng,
Bút chép tởi rườn Hán Bái Công,
Quan dòng dõi thứ dân tông phái,
Quê dú đất Phong Bái sinh thân,
Tên quan gọi lẻ ông Lưu Lý,
Tên năng lẻ đích thị Lưu Bang,
Quan sinh mà thế gian vặt vạ,
Vằn đình trường mại mạ chiêu binh,
Kết bạn các nho sinh hào kiệt,
Ẩn đệ nhất lập nghiệp quy mô,
Nhiên bất đắc thi thư lẻ mổ,
Trỏ tụng quan đại độ khoan nhân,
Sinh lai slí vạn dân đồ hôi.
Dịch nghĩa:
Ngày vắng ở Nam cung đọc sách,
Ngày lưu thư cổ tích sử kinh,
Họ Lưu có chiến tranh Tần, Hạng,
Bút chép đời nhà Hán Bái Công,
Ông dòng dõi thứ dân tông phái,
Quê ở đất Phong Bái sinh thân,
Tên quan (ông) gọi là ông Lưu Lý,
Tên đích thực là cụ Lưu Bang,
Quan sinh thời thế gian vất vả,
Ngày lại ngày mãi mã chiêu binh,
Kết bạn với các nho sinh hào kiệt,
Ẩn lập nghiệp quy mô hạng nhất,
Tuy không được thi thư là mấy,
Nhưng là người đại độ khoan nhân,
Sinh ra thời muôn dân lầm than.
(Thông báo Hán Nôm học 2004, tr.472-476)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét