Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2016

MỘT TÀI LIỆU VỀ DƯỢC VIẾT BẰNG CHỮ NÔM TÀY





MỘT TÀI LIỆU VỀ DƯỢC VIẾT BẰNG CHỮ NÔM TÀY
CUNG KHẮC LƯỢC
TS. Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Từ Cách mạng tháng 8-1945, giới nghiên cứu mới chỉ quan tâm đến mảng sách viết bằng chữ Nôm Tày về văn học dân gian như truyện, thơ và ca từ giao duyên của người dân tộc thiểu số Tày và Nùng Việt Nam. Chưa thấy ai chú ý đến việc khảo cưu, khai thác mảng tài liệu về y dược của miền núi Việt Bắc.
Đầu năm nay Canh Thìn (2000), Sở Y tế Tỉnh Cao Bằng đã yêu cầu tôi giải mã và trình bày về một số sách thuốc viết bằng chữ Nôm Tày. Việc này đã được nghiệm thu và đánh giá tốt.
Ở đây, tôi muốn các vị học giả nói riêng và bà con cô bác trong cả nước cùng mở rộng hiểu biết thêm về sách dược của người Tày Hòa An Cao Bằng trong quá khứ. Vì xét thấy, rất bổ ích cho việc kế thừa di sản trí tuệ. Đông y trong tình hình khai thác và làm rõ cũng như phát huy bản sắc dân tộc Việt Nam, đặc biệt hơn nữa, nếu chúng ta tiếp cận, thâm nhập được thì ứng dụng và thực hiện cũng thuận tiện hơn so với Tây y nhiều, sẵn dược liệu tự nhiên và dễ làm, phù hợp với cơ địa người Việt khi cần bồi dưỡng chăm sóc sức khỏe và chữa trị bệnh tật, nhất là đối với người nghèo ở thành thị và nông thôn nước ta.
Vài đặc điểm của tài liệu được viết bằng chữ Nôm Tày
1. Tên viết trong tài liệu dược:
- Đọc theo âm tiếng Tày và Nùng: Da Nam bí tuyền.
- Viết theo nguyên tự:
- Dịch tiếng Việt: thuốc nam bí truyền
2. Tên tác giả: Bế Văn Phủng.
3. Tên người sao chép: Bế Văn Moong
- Dưới dòng tên người sao chép còn có dòng chữ Hán:
(Tỵ tôn phụng sao)
Có thể hiểu là: Cháu xa đời vâng sao.
4. Niên đại sách: Không thấy ghi.
5. Khổ sách: 0,26 x 0,15. Số tờ gồm 30 tờ (đôi).
6. Giấy bản tự chế. Chất giấy thô nháp. Mầu giấy vàng xậm.
7. Đặc điểm lối đóng: Tờ giấy bản được gập làm đôi. Dùng sợi cước để dóng theo lối xâu 8 lỗ xuyên qua các tờ theo chiều dọc gáy sách và vắt ngang làm thành góc vuông để ôm chặt lấy gáy sách. Bìa sách: giấy bản dày được phất nước cậy.
8.Tình trạng văn bản: Đôi chỗ trên mặt giấy có lỗ mối mọt, nhưng hầu hết vẫn có thể nhận ra chữ vuông ở đó. Hai mép trên và dưới bị sớn giấy. Mép dưới chỗ thuộc phần sách do được giở đi giở lại nhiều đã rách và quăn, song không ảnh hưởng đến chữ viết.
Tóm tắt nội dung chủ yếu của văn bản.
Văn bản sao chép 55 bài thuốc dân gian, được nêu rõ từ thời Bế Văn Phủng nhà Mạc ở Cao Bằng đã từng truyền tụng trong các làng bản thuộc Hòa An và một vài địa phương lân cận. Có bài dùng chữa bệnh. Cũng có bài dùng bồi bổ sức khỏe.
55 bài thuốc liệt kê dưới đây từng tên bài:
1. Các giữ sức khỏe của người xưa.
2. Tắm nước nóng ấm cả bốn mùa.
3. Vài động tác gìn cho người được trẻ lâu.
4. Lmà cho tim khỏe mạnh và chữa bệnh tim.
5. Chữa đau đầu máu
6. Chữa bệnh máu dâng cao (= cao huyết áp?)
7. Chữa bệnh bao tử.
8. Chữa bệnh sởi
9. Chữa bệnh gan
10. Chữa bệnh da vàng
11. Chữa bệnh táo bón
12. Chữa bệnh đi ỉa chày.
13. Phòng và chữa ung sang (= ung thư?)
14. Phòng và chữa tiểu đường.
15. Cách gìn cho tráng dương nam nữ
16. Chữa hen suyễn
17. Chữa thiếu máu.
18. Chữa lang ben
19. Chữa mà lươn
20. Chữa xung bọng hoàn ngọc
21. Chữa ngã không đi được
22. Cách gìn giữ và chữa bệnh ở tai
23. Chữa bệnh thận
24. Chữa bệnh răng - miệng
25. Chữa bệnh ở mũi
26. Chữa mắt viêm kéo màng
27. Chữa phổi viêm có nước.
28. Chữa ngã nước sốt rét (bệnh ngược)
29. Cách làm cho ngủ được
30. Chữa ngộ độc thức ăn
31. Chữa đau vai
32. Chữa đau ở cổ
33. Chữa nam liệt ngọc hành
35. Phòng bại và liệt
36. Chữa đái dầm
37. Giữ gin vú sữa
38. Chữa lòi dom ( = trĩ?)
39. Chữa loạn thần ( = thần kinh)
40. Chữa nấc.
41. Chữa tay run giật
42. Chữa phải cảm
43. Chữa cước tay chân
44. Chữa da lên nấm
45. Chữa chỗ viêm đau trên người
46. Chữa cho hạ sốt
47. Chữa cho mọc tóc
48. Chữa bỏng
49. Cứu người ngã xuống nước
50. Chữa khớp gối
51. Chữa béo
52. Chữa lão hóa
53. Chữa bất an
55. Chữa phạm phòng
Xin nêu cụ thể đôi bài để mọi người cùng biết:
* Bài 1: Cách giữ sức khỏe của người xưa.
Các cụ ông, cụ bà chúng ta xưa nói rằng: mỗi khi bị ốm là nhịn ăn ngay. Dù món ăn có ngon đến đâu nhất định không chịu ăn tí gì cả. Thế rồi nghỉ việc và có thể uống thuốc cây cối lá lẩu chữa bệnh. Chỉ nhịn ăn thôi đã khiến cho toàn thân hồi lại, bệnh mất dần đi, người thấy dễ chịu hẳn. Cho nên người ta nếu biết nhịn ăn lấy 1 ngày trong tháng và cứ quen dần thành nếp như vậy trong đời sống là rất khỏe mạnh.
Lại truyền rằng: người ta chỉ nhớ ăn chứ không biết nhớ thở. Thở ngồi là tốt nhất. Ngồi xếp chân trên gỗ. Chân phải thuộc dương đặt đè lên chân trái. Hai gối ép sát mặt gỗ. Lưng thẳng. Mắt nhắm. Trong đầu trong bụng không nghĩ ngợi gì hết. Tay phải đặt đè lên lòng bàn tay trái, cả hai lòng tay đều ngửa. Ngón cái tay phải chạm đầu ngón cái tay trái. Miệng mím. Hít hơi vào mũi rồi trữ hai ở mồm. Thấy nước bọt ứa ra và mồng tưng tức thì hút nước bọt xuống ruột. Khi hít hơi vào thì làm thật chậm và bụng thót dần vào. lỗ đít sẽ có thót lên. Thở hơi ra từ mũi thì bụng sẽ phình dần ra và lỗ đít lại tụt dần xuống. Cứ hít vào thở ra như thế độ khoảng thì giờ một cây hương cháy hết. Ngày nào cũng làm như vậy vào sáng sớm thì khỏe, trẻ, sống lâu.
Lại còn truyền bảo rằng: nước âm dương rất tốt. Sáng dạy uống 1 bát nước, cứ ba phần tư nước đun sôi nóng chín thì một phần tư nước sôi chín để nguội, hòa vào nhau cho đều mà uống hết bát nước thì không bệnh.
Lại còn tắm nước nóng với lá thơm suốt bốn mùa để chống ngộ độc của tà khí thì tốt lắm.
Người xưa rất biết ăn uống điều độ, đặc biệt không bao giờ ăn no. Vợ chồng với nhau cũng điều độ, thường “é căn” vào gần gà gáy sáng, thì tốt con cái, cháu chắt.
* Bài thứ nhì, trong tài liệu thuộc bài số 15 là: Cách gìn giữ tráng dương nam nữ
Nam không biết giữ sẽ hỏng dương. Nữ không biết gìn sẽ hư quý vật, cũng gọi hư dương. Nói hư dương tức là không hoạt động được nữa, tê liệt sự nhịp nhàng, không muốn ân ái.
Có cách chữa sau: Một là, tắm ánh sáng, ánh nắng cho vật quý của nam. Trong đời người không mấy khi để hở vật quý ra ánh sáng của trời đất rọi vào. Quyết tâm mà tắm cho nó thì nó sẽ hưu lực, cương cường, dũng mãnh.
Hai bên vùng bẹn sẽ được ánh dương tác động làm máu ấm áp, thúc đẩy đến hai ngọc hoàn, nung đúc tinh lực. Hai là, dùng tỏi với vừng đen cùng mật ong mà ăn. Lấy củ tỏi xay nhỏ, trộn với mật ong 1 chai. Đem vừng đen rang thơm, giã nhỏ. Cả 3 thứ đó nhào, luyện kỹ. Bỏ vào lọ rộng miệng bảo quản 1 tháng ở chỗ tối, mát. Mỗi lần ăn múc ra 1 thìa con, bảo vào bát, đổ nước sôi, chín vào rồi uống. 1 ngày uống 2 lần. Uống đều hàng ngày thì vật quý trở lại hữu lực, phục hồi sự thích thú.
Còn với nữ thì phải chữa bằng cách: Day - Ấn vào huyệt Hội Âm. Huyệt nằm ở giữa âm hộ và hậu môn. Lấy ngón tay giữa day - ấn vào huyệt đó và lòng tay xoa xát vào toàn vùng cửa mình. Nếu biết chọn chỗ kín đáo, nhưng phải có ánh dương, hay ánh nguyệt mà day - ấn, xoa – xát thì rất tốt, chẳng bao lâu lại rạo rực, nứng muốn như người hồi xuân vậy(*).
Chú thích:
(*) CKL dịch theo nguyên bản chữ Nôm Tày và có được cụ Lương y Đồng Giang Đàm Văn Hiền góp cho ý kiến quý báu. Nhân đây xin gửi lời cảm tạ.
Thông báo Hán Nôm học 2000, tr.250-256

0 nhận xét:

Đăng nhận xét